Trang

Thứ Năm, 9 tháng 5, 2013


Bí ẩn thân thế của Tần Thủy Hoàng

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp người Tây phương

[Chanhkien.org]
1. Trong sử sách nói như sau
Tần Thủy Hoàng là một nhân vật sáng lập thời đại mang đầy màu sắc truyền kỳ trong lịch sử Trung Quốc, cũng là một một nhân vật không ngừng được mọi người bàn luận. Theo ghi chép, Tần Thủy Hoàng (sinh năm 259 – mất năm 210 TCN), họ Doanh, tên Chính, sinh tại Hàm Đan (nay thuộc tỉnh Hà Bắc). Người đời sau quen gọi là Doanh Chính hay Tần Vương Chính. Tự xưng là “Tần Thủy Hoàng”, ông kế vị năm 13 tuổi, năm 39 tuổi thống nhất sáu nước kiến lập nên triều Tần, qua đời trong lúc đi tuần ở tuổi 50. Tần Thủy Hoàng là một người áp dụng chế độ quân chủ chuyên chế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, và là một người sáng lập “trung ương tập quyền” thống nhất quốc gia đầu tiên, cũng là đấng quân chủ sử dụng xưng hiệu “Hoàng đế” đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gian tại vị, Tần Thủy Hoàng cũng đã tiến hành nhiều hạng mục công trình loại lớn, bao gồm xây dựng Trường Thành, cung A Phòng, lăng Ly Sơn… Trong một đời thống nhất thiên hạ, ông xưng Hoàng đế, phế bỏ chế độ phân đất phong hầu, thiết lập quận huyện, chinh phạt Bách Việt, trục xuất Hung Nô, xây Trường Thành, thông kênh đào, đúc binh khí, di dời phú hào, chuẩn hóa giao thông, chuẩn hóa chữ viết, chuẩn hóa tiền tệ và dạng đồng tiền, thống nhất hệ thống đo lường, thành lập bộ máy quan liêu đồng bộ từ trung ương đến quận, huyện, ban hành luật pháp thống nhất, lấy pháp trị quốc. Đối với đại thống nhất Trung Quốc, kiến lập chế độ chính trị, xác lập bản đồ, ông đều khởi tác dụng không thể xóa mờ đối với sự kế thừa đổi mới của dân tộc Trung Quốc, tạo nên ảnh hưởng sâu sắc đối với Trung Quốc hậu thế.
Năm Tần Thủy Hoàng mất, nghĩa là trong vòng một năm của năm 211 TCN (Tần Thủy Hoàng 49 tuổi), liên tục xảy ra ba câu chuyện kỳ lạ sau:
Theo ghi chép trong “Sử ký”, trước hết là hiện tượng thiên văn “Huỳnh hoặc thủ tâm” xuất hiện vào năm đó, người xưa gọi sao Hỏa là “huỳnh hoặc”, còn “tâm túc” chính là “chòm sao bò cạp” của thiên văn học hiện đại, mà sự xuất hiện của “huỳnh hoặc thủ tâm” lại được gọi là “đại hung chi triệu” (nghĩa là điềm báo có tai họa lớn), nhẹ thì Thiên tử mất ngôi, tình huống nghiêm trọng thì là Hoàng đế băng hà.
Cùng năm đó một mảnh thiên thạch đã rớt xuống tại khu vực Đông quận (nay là thành phố Bộc Dương, tỉnh Hà Nam), cùng lúc đó có người đã khắc lên trên mảnh thiên thạch 7 chữ “Thủy Hoàng Đế tử nhi địa phân” (nghĩa là sau khi Hoàng đế Tần Thủy Hoàng chết, quốc gia sẽ lại xuất hiện chiến loạn, và triều Tần cũng sẽ theo đó diệt vong).
Cũng mùa Thu năm đó, có một vị sứ giả từ Quan Đông đi đường đêm ngang qua con đường “Hoa âm bình thư”, trong lúc ấy có một người tay cầm ngọc bích đã chặn sứ giả lại, yêu cầu sứ giả mang ngọc bích dâng đến Hạo Trì quân, đồng thời nói “kim niên Tổ Long tử” (nghĩa là năm nay Rồng Tổ sẽ chết). Người sứ giả hỏi anh ta nguyên do, thì cùng lúc đó người đó biến mất dạng, đồng thời để lại ngọc bích, sứ giả đành phải mang ngọc bích về thuật lại cuộc gặp gỡ kỳ lạ của mình cho Tần Thủy Hoàng.
Sau đó, Tần Thủy Hoàng yêu cầu Ngự phủ xem xét miếng ngọc bích đó, không ngờ phát hiện miếng ngọc bích này là miếng ngọc mà Thủy Hoàng năm 28 tuổi ra ngoài tuần tra, trong lúc vượt sông đánh rơi xuống dưới nước. Rồi Tần Thủy Hoàng lại tiến hành chuyến tuần du lần thứ 5 vào năm 210 TCN (Tần Thủy Hoàng 50 tuổi), cũng là lần tuần du cuối cùng trong những năm ông còn sống.
2. Những điều nhìn thấy trong định
Trong trạng thái định khi tu luyện Đại Pháp, Sư phụ đã đả khai ký ức xa xưa cho tôi:
Sư phụ vì Chính Pháp đã sáng tạo nên nhân loại. Rồi nhân loại bắt đầu “binh chinh thiên hạ, vương giả trị quốc” (chiến chinh giành thiên hạ, kẻ làm vua trị quốc). Chính Pháp này tự nhiên có quan hệ với Rồng. Trong lịch sử, cách ngày hôm nay 2.000 năm, Rồng đã từ trong cơ thể của mình lấy ra rồng con, đặt vào trong bụng của [người con gái] họ Triệu. Triệu Cơ cũng chưa động phòng với Tần Trang Tương Vương, mà lại có mang. Vương nổi giận và muốn giết chết nó. Rồng đã răn bảo Trang Tương Vương về lai lịch của đứa con này, đồng thời nói rõ ngày sau đứa con này sẽ được tôn làm Thiên tử, có phúc phận lớn, vận mệnh lớn, có cống hiến lớn với nước, với dân, với con cháu, nhắc nhở ông phải chăm lo cho tốt. Vương rất sợ lại rất mừng, xem như con ruột của mình, sau này quả nhiên chỉ định truyền ngôi lại cho cậu bé. Cậu chính là vị Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử nhân loại —Tần Thủy Hoàng.
Liên quan đến bí ẩn thân thế của ông, có nhiều sự tranh luận. Theo ghi chép trong “Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ”, Tần Vương Chính là do Tần Trang Tương Vương Tử Sở và Triệu Cơ sinh ra. Tuy nhiên trong “Sử ký – Lã Bất Vi liệt truyện” lại không ghi chép, lúc Lã Bất Vi mang Triệu Cơ hiến tặng cho Tử Sở, thì đã biết được bà có mang, cũng có nghĩa là rất có khả năng Doanh Chính là đứa con riêng của Lã Bất Vi. Sử gia thời Đông Hán Ban Cố cũng đã dẫn dụng cách nói này, trong cuốn “Hán thư” nổi tiếng của ông đã gọi Doanh Chính là đứa con riêng của Lã Bất Vi. Mãi đến khi Tần Thủy Hoàng chết đã gần 2.000 năm sau, cũng vẫn có người tin rằng Tần Thủy Hoàng là con riêng của Lã Bất Vi.
Trong trạng thái định khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, tôi biết được rằng, Tần Hoàng Doanh Chính là đứa con đầu tiên của Rồng tại nơi con người, vào năm ông qua đời đã có Thần nhân gọi Tần Thủy Hoàng là “Tổ Long”, xem ra là có nguyên nhân của nó.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/110965
http://chanhkien.org/2013/04/bi-an-than-the-cua-tan-thuy-hoang.html

Bầu trời của lịch sử: Thần hành tại thế

Tác giả: Thiện Dũng

[Chanhkien.org] Tôi là đệ tử Đại Pháp thông qua tu luyện Pháp Luân Đại Pháp mà đạt đến trạng thái tiệm ngộ. Qua 16 năm tu luyện thực tiễn trong Đại Pháp, trải qua rất nhiều sự việc thần kỳ siêu thường, nay viết ra một phần để giao lưu cùng các đồng tu. Dưới đây chỉ là thể hội chứng ngộ trong tu luyện Đại Pháp của cá nhân, có chỗ nào thiếu sót mong quý đồng tu chỉ giúp.
1. Chính niệm
Hết thảy những gì của đệ tử Chính Pháp đều bắt nguồn từ chính tín kiên định vào Phật Pháp vĩ đại, không có chính tín thì cũng không có chân tu, công năng chỉ là một chủng hiện tượng tất nhiên trong quá trình chứng ngộ chân lý Phật Pháp của đệ tử chân tu. Công năng thực ra là vì chứng thực Đại Pháp, dùng để phá trừ bức hại của cựu thế lực, cứu độ chúng sinh; nếu không, dùng bằng nhân tâm thì không có ý nghĩa gì cả, cũng như nhập ma đạo.
Từ sau 20-7-1999 trở đi, tôi cũng như hàng nghìn hàng vạn đệ tử Chính Pháp, sau khi giao lưu cùng các đồng tu trong vùng đã quyết định đi Bắc Kinh chứng thực Pháp và duy hộ Đại Pháp. Trong 9 vị đệ tử Đại Pháp lên Bắc Kinh chúng tôi, có một vị đồng tu mà chị gái là nhân viên công tác Phòng 610 của tà đảng tại địa phương, sau khi biết đồng tu đi Bắc Kinh, chị ta phối hợp với cảnh sát tà ác ở khu vực mưu đồ bắt giữ phi pháp các đồng tu đi Bắc Kinh chứng thực Pháp. Hôm ấy sau khi lên xe, tôi đợi các đồng tu khác đến, được một lúc thì chị gái đồng tu dẫn nhân viên tới chỉ vào tôi, nói: “Anh ta luyện Pháp Luân Công!” Đợi các đồng tu khác lần lượt lên xe, chị ta bắt em gái mình cưỡng chế đưa đi, còn nhân viên thừa hành dẫn rất nhiều cảnh sát tới kiểm tra nghiêm ngặt thùng xe ô-tô chúng tôi. Từng người bị chất vấn xem có phải tập Pháp Luân Công không, có mấy vị đồng tu bị cảnh sát dẫn đi. Lúc ấy tôi nghĩ: Ta là đệ tử Đại Pháp, con đường tu luyện của ta là do Sư phụ an bài, ai nói gì cũng không được tính. Khi cảnh sát dẫn các nhân viên thừa hành tới cạnh tôi, tôi bình tĩnh nhìn họ, tâm bình tĩnh như nước hồ, không chút gợn sóng. Cảnh sát liên tục hỏi những người xung quanh tôi, nhưng không hề hỏi tôi, các nhân viên thừa hành cũng tựa như không biết tôi vậy. Toán cảnh sát này đi rồi, lại một toán khác đến thẩm vấn những người quanh tôi, nhưng chỉ đi qua tôi như không nhìn thấy tôi vậy. Dưới sự bảo hộ từ bi của Sư tôn, vào 7 giờ 40 phút sáng ngày 03-01-2000, tôi và một vị đồng tu khác luyện công ôm bão luân chứng thực Đại Pháp trên quảng trường Thiên An Môn. Trong thời khắc ấy, cả thế giới tựa như ngừng thở, hết thảy thế gian đều tĩnh chỉ lại, không còn những tiếng huyên náo; tôi nhìn lên bầu trời, thấy vô lượng Thần Phật mắt không động đậy nhìn tôi và đồng tu, ánh mắt đầy quan tâm, nhưng hai hàng lệ chảy dài……
Tôi và một vị đồng tu, trong quá trình chứng thực Pháp, giảng thanh chân tướng, do đồng tu bị kẻ ác trình báo, đối diện trước mặt là cảnh sát tà ác bắt giữ phi pháp. Tôi chính niệm nhìn thẳng vào cảnh sát, nội tâm thản nhiên bất động, tâm như nước chết, phát xuất một niệm cường đại: “Điều ta làm là chân chính nhất, chứng thực Đại Pháp, tà ác không xứng bức hại ta”. Cảnh sát và ác nhân hoàn toàn bị chính niệm của tôi ức chế, cặp mắt ngây dại, tựa như nhìn không thấy tôi, tôi thản nhiên bước qua tà ác. Lại một lần nữa Sư tôn từ bi bảo hộ tôi thoát khỏi hiểm cảnh, sau đó toàn thành phố ra lệnh giới nghiêm. Dưới phối hợp chính niệm của chỉnh thể đồng tu, bức hại của tà ác đã triệt để giải thể.
2. Dự báo
Một lần giao lưu cùng đồng tu, tôi gặp một vị điều phối viên đang lưu lạc. Trong khi chia sẻ, cô nói tối định về nhà thăm hỏi chồng, nhưng các đồng tu đều không đồng ý. Khi phát chính niệm đồng bộ toàn cầu, trong định tôi nhìn thấy trường không gian của vị nữ đồng tu này chứa đầy vật chất tình, loạn Pháp lạn quỷ mưu đồ viện cớ đó khống chế cảnh sát tà ác, chuẩn bị rình bắt vị đồng tu này. Phát chính niệm xong, tôi kể với cô cảnh tượng mà tôi nhìn thấy, giao lưu dựa trên Pháp với vị đồng tu này, giúp đồng tu nhận ra cái tình của mình với chồng, hiểu rõ người tu luyện cần đối đãi vấn đề này như thế nào, cũng như tính nguy hại mà tình mang tới. Lúc này, tâm tính đồng tu thăng hoa thực chất trong Pháp, trường không gian tự thân vốn vẩn đục nay trở nên thuần tịnh, quanh đầu đồng tu xuất hiện một vòng hào quang màu xanh lam, ánh sáng trí tuệ tỏa khắp bốn phía. Chúng tôi cùng nhau học Pháp, phát chính niệm, đến 8 giờ sáng ngày hôm sau, chồng nữ đồng tu đến chỗ chúng tôi, nói: “Ái chà, may mà tối qua em không về nhà, nếu không cảnh sát đến bắt em và cả nhà đi rồi”. Nữ đồng tu nghe xong mỉm cười.
Loại tình huống như thế này tôi đã gặp qua nhiều lần, người tu luyện là phải trừ bỏ hết thảy nhân tâm nhân tình, trong tu luyện mang theo bất cứ thứ tình nào mà không bỏ thì đều cực kỳ nguy hiểm.
3. Tha tâm thông
Bên cạnh tôi có một vị nam đồng tu trẻ tuổi chưa kết hôn, do công tác bận rộn nên có lúc học Pháp buông lơi. Là đồng tu bên cạnh anh, tôi thường xuyên đốc thúc anh. Một đoạn thời gian học Pháp luyện công và làm công tác chứng thực Pháp cùng anh, cứ cảm thấy anh có điều gì đó là lạ, hiệu quả khi chia sẻ cùng anh cũng không tốt. Tôi tĩnh tâm lại, dùng công năng tha tâm thông quan sát tư tưởng anh, xem nút thắt trong tâm anh là gì, nhìn thấy trong tư tưởng anh có một hình tượng cô gái mặc áo trắng, hơn nữa vị nam đồng tu này rất nhớ nhung cô gái áo trắng đó, tựa như ngày đêm tơ tưởng, không thể tự thoát ra được. Đồng thời tôi nhìn thấy trong trường không gian của đồng tu có một con ma sắc màu xanh đen, xấu xí hung ác, toàn thân tiết ra chất dịch tanh tưởi, không ngừng nôn ra rất nhiều vật chất bẩn thỉu xú uế màu đen lên đầu đồng tu. Tôi lập tức phát chính niệm thanh lý can nhiễu bức hại của ma sắc lên đồng tu. Khi ma sắc bị chính niệm cường đại của tôi giải thể rồi, biểu hiện bên ngoài của đồng tu giống như trút được gánh nặng, đôi mắt lờ đờ biến thành trong suốt. Tôi nói với anh: “Con đường của người tu luyện đều được Sư phụ an bài tốt đẹp cả rồi, đối với lợi ích vật chất thế gian cần tùy kỳ tự nhiên, tình cảm nam nữ xử lý không khéo rất dễ tạo đại nghiệp, bị tà ác dùi vào sơ hở, bài học xương máu về vấn đề này đã quá nhiều rồi. Duyên phận thế gian của cô gái áo trắng kia với anh rất bạc, chỉ như bèo nước gặp nhau, cô ấy không lâu nữa sẽ rời bỏ anh. Anh là người tu luyện thì nên buông bỏ ảo tưởng không thực tế kia đi, cần phải hiểu rõ sứ mệnh của một đệ tử Chính Pháp—tu luyện của chúng ta quyết định sống chết của vô lượng chúng sinh”. Nam đồng tu vừa nghe tôi nói đã thất kinh, cúi đầu trầm tư. Thông qua chia sẻ, đồng tu nhận thức được rằng làm người tu luyện trước tiên phải loại bỏ chấp trước vào tình cảm nam nữ, mới có thể phản bổn quy chân, triệt để giải thoát khỏi nỗi khổ vô tận của luân hồi; thứ nữa, làm đệ tử Chính Pháp thì ắt phải làm tốt ba việc Sư tôn yêu cầu, nếu không hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Đồng tu không ngừng học Pháp, hướng nội tìm, quy chính thiếu sót; không lâu sau, cô gái áo trắng kia biến mất khỏi cuộc sống của nam đồng tu, không còn bất cứ liên hệ gì nữa.
Người tu luyện đứng tại góc độ của Pháp mà đối đãi vấn đề, xử lý mâu thuẫn, thì điều Đại Pháp cấp cho đều là tốt đẹp nhất. Đối với lợi ích vật chất thế gian, người tu luyện ôm mãi không buông, thì rất dễ mất đi hết thảy những gì cần có.
4. Dao thị
Một vị nữ đồng tu trẻ tuổi, do chướng ngại chấp trước vào tình thân quyến với cha mẹ, nên rốt cuộc vẫn chưa bước ra. Trong thời gian đi công tác, cô gặp một vị đồng tu đã quen từ trước, vì thế bắt đầu tu luyện trở lại. Cha mẹ cô biết được bèn tìm mọi cách ngăn cản nữ đồng tu tu luyện, mẹ cô tuyên bố có khối u ác tính, để con gái phải trở về nhà, làm đồng tu rất phiền não. Chia sẻ cùng cô biết được tình huống này, tôi nói với cô: “Tu luyện khi làm việc phải dĩ Pháp vi Sư, chứ không phải theo tình cảm mà làm. Chấp trước vào tình thân quyến là quan mà mỗi người tu luyện đều phải vượt qua, gặp mâu thuẫn trước tiên hướng nội tìm. Không chỉ có chị, tôi cũng phải hướng nội tìm, vô lậu rồi can nhiễu tự diệt”. Đồng thời tôi vận dụng công năng dao thị, đoạn nói với cô cảnh tượng tôi nhìn thấy: “Thân thể mẫu thân chị rất kiện khang”. Nữ đồng tu hướng nội tìm, tìm thấy chấp trước vào tình thân quyến, bèn kiên định chính niệm của người tu luyện, đồng thời tôi cùng cô phát chính niệm thanh lý con ma có hình tượng yêu thú to lớn như trong truyền thuyết Tây phương đang khống chế mẹ cô. Sau đó họ hàng cô ở quê nói với cô, mẹ của cô không có bệnh có u gì hết, thân thể rất khỏe mạnh. Nhờ chính niệm của nữ đồng tu, can nhiễu đến từ mẹ cô đã chấm dứt, nữ đồng tu chứng thực Pháp cùng các đệ tử Đại Pháp khác trong hoàn cảnh tu luyện mới, không ngừng tinh tấn.
Vùng chúng tôi có một cặp vợ chồng trung niên bị cảnh sát bắt giữ, người nhà đồng tu rất lo lắng, định dùng tiền hối lộ cảnh sát. Mấy hôm ấy tôi cùng các đồng tu đến nhà vị đồng tu này, người nhà đồng tu hỏi tôi: “Tình huống vợ chồng họ trong hang ổ đen tối ấy như thế nào?” Tôi cân nhắc một lúc. Tôi cho rằng tôi nên dùng công năng nhìn xem tình huống ra sao để chia sẻ với các đồng tu, cũng tiện phối hợp chỉnh thể, phá trừ an bài của cựu thế lực. Nam đồng tu nhân tâm rất nhiều, không đứng tại Pháp, đã khai ra hết rồi, còn nữ đồng tu khá kiên định. Trước tình huống này, các đồng tu chúng tôi đều hướng nội tìm, giao lưu cùng nhau, cuối cùng có chung nhận thức: Trước tiên lên mạng nhờ các đồng tu ở địa phương gia trì chính niệm, sau đó người nhà đồng tu đến hang ổ giam giữ phi pháp đồng tu, tìm những nhân vật chủ chốt bức hại để phơi bày tà ác, giảng rõ chân tướng. Nhưng người nhà đồng tu chấp trước vào tình thân không buông được, thỏa thuận với người nhà không tu luyện dùng một lượng tiền lớn hối hộ cảnh sát. Sự tình xảy ra rồi, do người nhà đồng tu dùng tình thân đối đãi với bức hại của tà ác, chứ không dùng chính niệm của người tu luyện đối đãi, nên Pháp tại cảnh giới tu luyện của tôi triển hiện là: Tầng thứ không gian nhất định đối ứng với thân thể người nhà đồng tu đã phát sinh biến hóa cực kỳ đáng sợ. Thế giới nguyên ban đầu đẹp đẽ vô tỷ đã trở thành núi lở đất long, thây chết khắp đồng, không có ánh sáng, hoàn toàn bị “thế lực hắc ám” che phủ. Biểu hiện tại không gian người thường là thân thể xuất hiện bệnh nghiệp nghiêm trọng. Người nhà không tu luyện mà đã hối lộ cảnh sát tà ác, vì biến tướng trợ giúp tà ác, nên trường không gian khác đối ứng sản sinh một lượng vật chất màu đen to lớn, như núi như trời, tương lai sẽ đối diện với cảnh ngộ hết sức bi thảm. Nam đồng tu được dùng tiền chuộc ra rồi, trạng thái tu luyện dao động mãi không thôi, còn nữ đồng tu bị kẻ ác hãm hại oan ngục. Thông qua sự kiện này tôi ngộ được rằng tu luyện là nghiêm túc phi thường, người tu luyện dùng tình đối đãi với các đồng tu xung quanh, thì tương đương với can nhiễu đồng tu tu luyện; người tu luyện dùng tình đối đãi với người nhà không tu luyện, thì có lúc đúng là can nhiễu thế nhân được Đại Pháp cứu độ, thậm chí khởi tác dụng phụ diện mà không biết, quả là hại mình hại người.
5. Thấu thị
Tham gia nhóm học Pháp, một vị nữ đồng tu xuất hiện nghiệp bệnh can nhiễu, biểu hiện là một bên lưng xuất hiện chấm đỏ, sau đó là bóng nước, đồng thời đau như kim châm. Dùng tầng nông của thiên mục mà nhìn, vị trí nghiệp bệnh đầy ắp khí đen, âm khí xanh sẫm, hướng vào sâu mà nhìn thì là một linh thể như con gấu đen. Sau đó tôi kể cho mọi người quan hệ nhân duyên giữa linh thể gấu đen này với vị nữ đồng tu trong lịch sử xa xưa. Sau khi các đồng tu chia sẻ với vị nữ đồng tu này, nữ đồng tu hướng nội tìm, thấy rằng khi gặp khảo nghiệm tâm tính thì không thể thực hiện cái Nhẫn của người tu luyện, bực mình tức giận. Cô phát xuất một niệm: Nợ thiếu phải hoàn trả, nhưng cô tu Đại Pháp rồi, hết thảy can nhiễu đều là trái với Đại Pháp, nhân tố tà ác can nhiễu tu luyện của đệ tử Chính Pháp đều phải diệt tận. Thông qua nhiều lần phát chính niệm, linh thể gấu đen ở không gian khác đã bị Đại Pháp triệt để thanh lý. Nữ đồng tu khỏi bệnh rồi, chỗ da nơi nghiệp bệnh lưu lại một vết bàn chân gấu, móng vuốt có thể nhìn thấy rõ ràng.
6. Túc mệnh thông
Trong quá trình giảng thanh chân tướng, do cơ duyên thế gian dẫn dắt, tôi gặp rất nhiều người cả đời chỉ gặp một lần. Một lần dùng cơm ở một quán ăn tại Tân Cương, chủ quán là một cô gái trẻ người tộc Duy Ngô Nhĩ, chiêu đãi khách rất ân cần nhiệt tình. Nhìn vẻ tươi cười trên khuôn mặt lương thiện của cô, tôi có cảm giác rất thân quen, vậy là tôi dùng công năng túc mệnh thông nhìn cô gái này, thấy rằng quá khứ cô từng có thế duyên rất sâu với tôi. Để chờ đợi vị Thần vĩ đại nhất trong vũ trụ hạ xuống nhân gian cứu độ, trong lục đạo luân hồi, cô đã khổ đợi 7.000 năm, trải đủ ma nạn. Lúc này khách trong quán ăn xong liền ra đi, nữ chủ quán đứng cách tôi không xa đang dọn dẹp bát đĩa, trong vô ý tôi phát hiện ở không gian khác xuất hiện một cô gái giống như cô đang khóc, quỳ lạy hướng về bầu trời phía Tây nơi có Pháp thân Sư tôn. Pháp thân Sư tôn từ bi nhìn tôi và cô, tôi hỏi: “Cô tin đạo Hồi phải không?” Cô đáp: “Vâng, tin chứ, anh thì sao?” Tôi nói: “Tôi là người tu Phật, nhưng tôi tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo của cô. Người có tín ngưỡng là người lương thiện, là có Thần trông nom”. Nữ chủ quán nói: “Đúng vậy!” Tôi nói: “Đảng cộng sản theo thuyết vô thần, không để người ta tin Thần, rất xấu xa”. Nữ chủ quán nói: “Đảng cộng sản rất xấu”. Tiếp đó tôi giảng về Cửu Bình, tiên tri dự ngôn trong lịch sử, tam thoái, v.v. Nữ chủ quán nghe chân tướng Đại Pháp xong, không chỉ tự mình tam thoái, mà còn gọi người thân tới nghe chân tướng Đại Pháp và làm tam thoái. Cuối cùng cô nói với tôi tên cô là A Y Cổ Lệ, nghĩa là hoa mặt trăng. Lúc tôi ra đi, cô và người nhà đều rất thành khẩn cảm tạ tôi, tiễn tôi một đoạn rất xa.
Đệ tử Chính Pháp cần nắm chắc mỗi cơ hội giảng chân tướng, rất nhiều thế nhân chỉ có một lần cơ duyên lắng nghe chân tướng Đại Pháp. Chờ đợi mấy nghìn năm, chúng ta không thể có trách nhiệm với con người thế gian hay sao? Công năng Đại Pháp ban cho là một loại thể hiện khác của Phật Pháp trang nghiêm, vận dụng thế nào cho chính, cho Thiện là lựa chọn của mỗi vị đệ tử Chính Pháp.
Sinh mệnh trải qua lịch sử vũ trụ dài đằng đẵng đi đến ngày hôm nay, trong thời khắc then chốt của lịch sử, mỗi sinh mệnh đều tuyển chọn con đường tương lai của bản thân mình. Người đời trầm mê trong cõi hồng trần, còn đệ tử Chính Pháp kiên định chính niệm kim cương bất động vào chân lý vũ trụ, chính niệm chính hành, dùng sinh mệnh và máu viết nên bài văn Chính Pháp, như một tấm bia phát sáng, mãi mãi tỏa sáng bầu trời của lịch sử vũ trụ tương lai.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/70996
http://chanhkien.org/2013/05/bau-troi-cua-lich-su-than-hanh-tai-the.html