Trang

Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2019

Bầu trời lịch sử: Vương triều trên thiên quốc



Tác giả: Thiện Dũng 
[ChanhKien.org] Phật Pháp đối với người tu luyện trong các tầng thứ khác nhau có các pháp tương ứng triển hiện trong các tầng thứ khác nhau. Khi tu luyện trong các trạng thái và tầng thứ khác nhau, hình thức diễn hóa của vật chất và sự tồn tại của sinh mệnh trong các tầng thứ khác nhau mà Pháp triển hiện cho tôi vô cùng phong phú, tráng lệ và mỹ hảo, nhưng đó không phải là chân tướng căn bản của vũ trụ. Chỉ có kiên định chính niệm đối với chân lý vũ trụ nơi thế gian, chỉ khi ở cùng Sư tôn vĩ đại trong thời kỳ Chính pháp, trợ Sư chính Pháp, đây mới là sự việc vĩ đại nhất và có ý nghĩa nhất không có bất kỳ sự việc nào sánh được.
Trong một lần nhập định, Pháp đã triển hiện cho tôi thế giới thiên quốc trong một tầng rất thâm sâu ở không gian khác đối ứng với thân thể của tôi. Đó là một thế giới rộng lớn vô hạn được tạo nên bởi các loại đá quý (như thủy tinh, lưu ly, mã não…) và vàng. Tất cả mọi thứ trong thế giới thiên quốc đều lấp lánh ánh sáng, rực rỡ ánh vàng kim. Tất cả các sinh mệnh và vật chất trong thế giới đó đều có màu sắc vô cùng tươi sáng, mỹ diệu. Không khí nơi đây cực kỳ thuần tịnh, mây mù mờ mịt, biển mây bồng bềnh, các đám mây cuồn cuộn cao xa, những rặng núi mờ ảo, nhấp nhô, bầu trời xanh biếc, sâu thẳm.
Ở giữa những rặng núi trải dài, tôi kinh ngạc phát hiện có rất nhiều ngọn núi to lớn lơ lửng trong không trung, có ngọn núi bay cách mặt đất hàng trăm mét, đỉnh núi chìm trong mây mù, trên núi có nhiều loại cây cối, thực vật, kỳ hoa dị thảo và các loại động vật quý hiếm. Bỗng nhiên xuất hiện một con mãnh hổ chạy xuyên qua giữa rừng, nhảy một phát từ độ cao mấy trăm mét, từ từ hạ xuống mặt đất, rồi chạy vào trong rừng rậm. Bên dòng suối trong rừng, một con kỳ lân lông màu lam đang uống nước, toàn thân kỳ lân có vảy bao phủ, trên đầu có hai chiếc sừng, hai con mắt màu đỏ, thần thái an hòa, thư thái. Bên cạnh nó có vài con kỳ lân nhỏ đang chơi đùa đuổi bắt, tiếng kêu của chúng giống như tiếng hươu, nai. Trên ngọn cây cao đến mức tầm nhìn có thể thấy được, có một con phượng hoàng như trong truyền thuyết, toàn thân màu vàng kim giống như màu ngọn lửa đang bốc cháy, trông vô cùng rực rỡ. Con phượng hoàng vẫy vẫy đôi cánh và cái đuôi dài của nó, dang rộng đôi cánh lớn, hướng mỏ lên trời, cất tiếng hót trong trẻo, thánh thót, vang vọng cả núi rừng.
Khắp mặt đất nơi thiên quốc tràn đầy các loài hoa tươi đua nhau khoe sắc, muôn hình vạn trạng, như một dải hoa gấm trải đầy trên mặt đất xanh tươi. Nơi đây quả thực là một biển hoa! Trong không khí tràn đầy mùi thơm của các loài hoa, mùi hương bao phủ lấy con người. Quan sát kỹ trên mỗi cánh hoa trong suốt đều có một chữ nhỏ, giống như loại chữ triện trong các bài thơ cổ, những chữ này hòa cùng với các đường gân trên cánh hoa, vô cùng sống động, vừa thần kỳ, vừa mỹ diệu. Nội dung của các chữ này có lúc như là một bài kệ (lời hát trong kinh Phật), đó là triển hiện trong không gian này của các Pháp lý ở các tầng thứ khác nhau mà người tu luyện chứng ngộ được qua quá trình ma luyện kiên định và cực khổ ở thế gian.
Nơi ở của chúng Thần trong thiên quốc là những tòa tháp được xây dựng hoàn toàn bằng vàng, y phục của thiên nhân và phong cách kiến trúc ở thiên quốc giống với phong cách triều Đường vào thời kỳ thịnh thế. Lầu các nguy nga, tầng tầng trùng điệp, phía sau các ngôi nhà chính có hoa viên, bên trong có đình đài, ao hồ, rừng cây, vườn trúc. Trong nhà có bàn, giường, đàn, kiếm, bếp lò, gấm, rương, sa, trướng… Đồ dùng ăn uống hầu hết được làm bằng vàng, bạc. Tôi thấy chúng Thần trên thiên quốc cũng đều đang học sách “Chuyển Pháp Luân”, nhưng cuốn sách “Chuyển Pháp Luân” mà chúng sinh trên thiên quốc học có những chữ triện màu vàng kim, cuốn sách là loại sách lật sang bên phải, nội dung và nội hàm văn tự trong sách hoàn toàn khác với cuốn sách “Chuyển Pháp Luân” tại nhân gian.
Trong thiên quốc không chỉ có những biển hoa đang nở rộ, những cây hoa màu sắc rực rỡ, mà còn có những cây ăn quả sai trĩu trịt, quả trên cây đều căng tròn. Quả chín sẽ tự rời khỏi cành và bay đến chỗ cành cây thấp mà tay có thể với tới được, xếp hàng ngay ngắn ở đó chờ được hái. Phía xa là những cánh đồng lúa gạo, lúa mạch màu vàng. Những cây lúa cao gần 2m, to như cánh tay, hạt lúa to như quả bóng bầu dục tại nhân gian. Hạt gạo nhỏ hơn hạt lúa mạch một chút.
Chúng sinh bách tính trong thế giới thiên quốc sinh sống trên mặt đất, còn các vị Thần có quả vị thì “sinh sống” trong một quần thể kiến trúc giống như cung điện ở trên không trung. Do cảnh giới quả vị khác nhau nên quy mô của cung điện cũng khác nhau.
Ở trung tâm của thế giới thiên quốc có một tòa thiên cung màu vàng rực rỡ, nguy nga, rộng lớn. Phòng ốc có đến mấy vạn gian, bên trong đó có các lâu đài cao đến trăm mét, ở giữa có các cây cầu hình vòm nối giữa các tầng lầu, ẩn hiện trong mây. Tất cả các tòa kiến trúc đều dùng đá trắng làm móng, bậc thềm bằng vàng. Bề mặt các cột trụ được phủ một lớp sơn mài màu đỏ, trên các bình phong và cánh cửa đều trạm khắc những hoa văn tinh xả, diễm lệ. Mái nhà được lợp bằng ngói lưu ly màu vàng, xung quanh các căn phòng được trang trí bằng ngọc lưu ly màu lam và xanh lục.
Trước thiên cung là một quảng trường rất rộng, được lát bằng bạch ngọc, đứng thủ hộ xung quanh là các thiên thần mặc giáp vàng trong tay cầm giáo dài. Phía trước là một cổng cung điện, được đặt trên đài lớn, hai bên cổng là hai tòa lầu gác, cờ bay phấp phới, canh phòng nghiêm ngặt. Đi thêm một đoạn là một tòa chính điện rộng lớn với mái nhà ba gác. Tòa chính điện được xây trên một cái đài hai tầng cao mấy chục mét, đài được trang trí tinh xảo, đẹp mắt, bên trên trạm khắc hình tượng các loài Thần thú. Nhìn ra phía sau của chính điện là vườn hoa của cung đình, xung quanh có các lầu gác cao, những hành lang có mái che, sân khấu biểu diễn, cây cối, hoa cỏ, sơn thủy đầy đủ mọi thứ. Các thiên nhân mặc các loại trang phục lộng lẫy, chân đạp trên mây, đi qua đi lại tấp nập. Bên trong các phòng ốc được trang trí trang nhã, quý phái, long lanh như châu ngọc, các bức tường hoa văn tinh xảo. Đồ dùng ăn uống đều là những đồ vật quý giá, đồ đựng rượu bằng ngọc bích, chén rượu bằng hổ phách, các đồ vật khác đều làm từ mã não, thủy tinh. Chúng Thần trong cung dường như rất bận rộn, trong thiên cung, các tấm màn trướng, màn sân khấu đều được thay thế bằng những tấm vải lụa lớn màu đỏ, phía trước cổng các cung treo các loại đèn cung đình và cờ quạt, khung cảnh tràn ngập không khí vui mừng.
Bên trong tất cả quần thể kiến trúc có một tòa kiến trúc rất đặc biệt, độc lập với các kiến trúc khác, nằm ở vị trí trung tâm của hậu cung, đây là một điện có mái hình tròn ba tầng và đỉnh nhọn, được lợp bằng ngói lưu ly màu lam. Hình dáng tương tự như điện Thiên đàn ở Bắc Kinh. Tên của điện này theo ngôn ngữ của con người gọi là “Điện Điển Tàng”. Bước vào trung tâm của điện có tám bức bình phong lớn hình chữ nhật, trên đó trạm khắc bản đồ núi non sông nước, được trang trí bằng ngọc bích và các loại đá quý. Phía trước bình phong là một chiếc bàn, trên bàn có một cuốn thư tịch rất dày, phía dưới bàn là một cái lư hương màu vàng tím, từ đỉnh lư hương bay ra một làn hương thoang thoảng. Khi tôi động niệm muốn xem cuốn thư tịch thì cuốn sách tự động bay lên và mở ra, từ cuốn sách phát ra một luồng sáng màu vàng, tạo thành một màn hình lập thể rất rộng trong không trung, tư duy của tôi lúc này là trạng thái tư tưởng của sinh mệnh tại không gian khác, nó có phần không giống với trạng thái tư duy của người thường tại nhân gian. “Tư tưởng” của tôi tiến nhập vào màn hình lập thể trong cuốn thư tịch, bên trong là một không gian cực kỳ rộng lớn, tất cả cảnh vật và con người đều trở nên “chân thực”. Thì ra trong cuốn thư tịch ghi chép lịch sử sinh mệnh của tôi vì để đắc Pháp mà đời đời kiếp kiếp chuyển sinh nơi hồng trần thế gian. Tôi thấy tôi đời đời kiếp kiếp đã phải chịu khổ vô số khổ nạn, thấy tôi từng trải qua vô số phong ba bão táp, cô đơn hiu quạnh, chìm nổi chốn quan trường, sinh ly tử biệt, khí thế hào hùng nắm giữ giang sơn.., các quá trình sinh mệnh đều trôi qua trước mắt như mây khói, như bừng tỉnh từ trong giấc mộng. Trang cuối cùng của cuốn thư tịch bỏ trống, là vì tôi hiện đang là đệ tử Đại Pháp còn đang ở thế gian trợ Sư chính Pháp.
Lúc này từ trên thiên không vọng tới từng hồi từng hồi trống hùng dũng, mạnh mẽ. Trước mắt tôi đột nhiên xuất hiện vô số thiên nhân và chúng Thần, nhiều không kể xiết, tất cả đều lặng lẽ ngóng trông tôi, trong ánh mắt vui mừng của họ có chút buồn rầu, lo âu, tràn đầy hy vọng, họ đã ngóng trông tôi như vậy rất lâu, rất lâu rồi. Cùng lúc đó, trong thiên cung vọng ra một hồi âm thanh huyên náo, cửa thiên cung mở ra, một đội nghi lễ gần 1000 người đi ra. Đi cuối cùng là một nữ thiên nhân đoan trang, phong thái tao nhã. Cô trông khoảng 17-18 tuổi, mặc y phục màu xanh nhạt, thắt đai quay eo, trên đỉnh đầu cài một bông hoa mẫu đơn màu xanh lục, đeo một cái vòng màu trắng quanh đầu, quanh thân thể cô có một vòng hào quang rất lớn màu xanh lục, cô đứng trên một đóa hoa sen màu trắng rất lớn, trên cổ đeo một vòng khuyên màu vàng, tay đeo hai chiếc vòng ngọc, tai đeo khuyên tai bằng ngọc màu lục, trên đầu cài một cây trâm bằng ngọc bích, khuôn mặt mỉm cười, dung mạo cực kỳ xinh đẹp. Hai thị nữ đi bên cạnh cô, một người cầm trong tay một cái mâm tròn, bên trên trải một tấm vải lụa trắng, bên trái mâm đặt một cái trùy bằng kim cương, bên phải mâm đặt một cái chuôi như ý màu vàng, trong ký ức của tôi thì đây là những pháp khí mà tôi thường sử dụng khi ở thiên quốc. Vị thiên nhân đó nhẹ nhàng cúi chào tôi và cất giọng dịu dàng, thanh tao nói với tôi: “Thưa Vương của con! Ngài đã vì chúng con mà đã chịu rất nhiều đau khổ, chúng con luôn khắc ghi trong tim những hy sinh của ngài. Ngài mãi là niềm tự hào của thế giới chúng con. Trong những năm tháng tương lai lâu dài, ngài là niềm vinh hạnh của chúng con. Chúng con sẽ mãi tuyên tụng uy đức của ngài. Lúc Ngài trở lại Thiên quốc chính là lúc khởi đầu thực sự cho sinh mệnh của chúng con. Các con dân của ngài đang ngày đêm mong chờ ngày ngài trở về …”
Nói đến đây tôi nhìn thấy hai dòng nước mắt chảy ra từ đôi mắt trong sáng, mỹ lệ của cô, tuôn đầy trên đôi má thanh khiết, theo gió thổi rơi xuống mặt đất nơi thiên quốc, tại nơi nước mắt rơi xuống lập tức mọc lên hai đóa hoa màu lam nhạt, mỗi đóa hoa có bốn cánh hoa, trên cánh hoa có những hoa văn hình sóng nước, tỏa ra mùi hương thoang thoảng như mùi hoa nhài. Lúc này, trong tâm tôi cảm thấy một nỗi thống khổ mãnh liệt như bị kim châm, nhưng lại đau thấu tim gan! Mưa bắt đầu rơi trong thế giới của tôi, những giọt mưa rơi trên mặt đất thiên quốc, trong chốc lát mọc lên vô số bông hoa màu lam nhạt.
Tôi trông thấy thế giới của tôi nở đầy những bông hoa màu lam nhạt đó.

Bầu trời của lịch sử: Thành Cát Tư Hãn



Tác giả: Thiện Dũng
[ChanhKien.org] Thời gian giống như một dòng sông dài chất chứa những vinh nhục, ai lạc trong suốt 5000 năm của dân tộc Trung Hoa, nó cũng như một bức tranh ghi lại sự hưng thịnh và suy vong của mỗi triều đại. Hôm nay tôi xin kể lại một câu chuyện chân thực nhằm hé mở một trang sử thi hào hùng trong tiến trình lịch sử lâu dài ấy.
Đối với tôi, Thành Cát Tư Hãn là một vị phụ vương nhân từ, trí huệ và kiên cường, dưới sự dẫn dắt của ông, con cháu của ông chỉ trong mấy chục năm ngắn ngủi đã thống nhất phần lớn lãnh thổ lục địa châu Âu và châu Á. Vào thời kỳ thịnh vượng nhất, dân số của đất nước Mông Cổ chiếm 80% dân số toàn thế giới.
Đất nước Mông Cổ khi mới thành lập, vùng biên giới vẫn có rất nhiều bộ lạc phản loạn lưu vong, còn bị các quốc gia đối địch như Kim Quốc, Tây Hạ, Thổ Phiên nhòm ngó, tìm cớ phát động chiến tranh bất cứ lúc nào. Trước tình cảnh thù trong giặc ngoài này, phụ vương trước tiên bình định các bộ tộc phản loạn, sau đó chuẩn bị sách lược chiến tranh theo lối tấn công. Ông thường dẫn các anh trai tôi liên tục chiến đấu ở những nơi mà các bộ tộc phản loạn qua lại.
Mỗi khi thấy các anh trai cùng phụ vương xuất chinh, tôi rất lo lắng. Một lần sau khi phụ vương bình định phản loạn xong, từ xa trông thấy phụ vương dẫn quân trở về doanh trại, tôi cầm một cây cung nhỏ đứng đợi trước đại trướng. Nhìn thấy phụ vương, tôi hỏi: “Thưa phụ vương, con có thể cùng người xuất chinh được không?” Phụ vương quay đầu nhìn các tướng lĩnh, mỉm cười hỏi: “Con trai của ta, con có tài cán gì nào?” Tôi trả lời: “Con có thể bắn trúng một con dao trong vòng 15 bước chân, con còn có thể bắn được một con sóc hoang đang chạy rất nhanh trên thảo nguyên”. Tôi vừa nói xong, các tướng lĩnh phía sau phụ vương đồng thanh cười lớn, cả phụ vương cũng cười. Tôi đỏ mặt nhìn phụ vương, phụ vương ôm chặt tôi một lúc rồi nhìn lên bầu trời, chỉ vào con đại bàng đang bay lượn trên trời rồi nói: “Con trai của ta, nếu con có thể bắn hạ nó thì con có thể theo ta xuất chinh”. Từ đó tôi thường hay nhìn lên bầu trời nghĩ ngợi, mong ước đến một ngày có thể cùng phụ vương xuất chinh. Cũng từ thời khắc đó, tôi bắt đầu tăng cường khổ luyện kỹ thuật bắn cung, tôi đã học hỏi và luyện tập bắn cung từ rất nhiều cung thủ tài giỏi ở Mông Cổ.
Khi tôi lớn hơn, phụ vương lệnh cho người chế tạo riêng cho tôi cung và tên đặc biệt. Thông thường cây cung của một chiến binh Mông Cổ cần 150 cân khí lực mới có thể kéo được, với quân địch mang áo giáp nặng, chiến binh Mông Cổ có thể bắn hạ ở độ xa hơn 100 bước, còn với quân địch mang áo giáp nhẹ có thể bắn hạ ở độ xa hơn 200 bước. Nhưng cung tên của tôi phải cần hơn 200 cân khí lực mới có thể kéo được, trong chiến trận tôi có thể bắn trúng 70 mũi tên. Trong cuốn “Marco Polo du ký” có ghi chép việc Marco Polo không thể kéo nổi cây cung của quân đội Mông Cổ.
Trước khi tấn công nước Tây Hạ, tôi cùng phụ vương thị sát tuyến đường hành quân, khi đi đến một sơn cốc, tôi nhìn thấy một con chim đại bàng lớn màu vàng đang lượn vòng phía trên đàn dê của người du mục Mông Cổ, khiến những con dê non đang ăn cỏ sợ hãi chạy tứ tung, phụ vương thấy vậy cau mày. Tôi phi ngựa lên trước nói: “Xin phụ vương cho phép con bắn hạ con đại bàng xuống để nó không bắt đàn dê nữa”. Phụ vương nhìn tôi nghi ngờ một lúc rồi gật đầu nói: “Bắn đi”. Tôi vừa thúc ngựa chạy vừa giương cung nhắm bắn vào ngực con chim, con chim bị trúng tên, chao đảo trên không trung một lúc rồi rơi xuống. Các binh sĩ nhanh chóng mang con đại bàng dâng lên phụ vương, phụ vương nhìn con đại bàng bị trúng tên, cười hài lòng, năm đó tôi 17 tuổi.
Bốn anh em chúng tôi thường đi theo phụ vương nên ảnh hưởng sâu sắc bởi những lời dạy bảo của phụ vương. Anh hai thường nói nhiều, có lúc xảy ra mâu thuẫn với anh cả. Biết chuyện, phụ vương đã gọi bốn anh em chúng tôi vào trướng của ông, nói với chúng tôi những lời sâu sắc và thấm thía: “Các con có biết sau này các con sẽ trở thành những người như thế nào không? Các con giống như bốn trụ cột của quốc gia, trụ cột mà bất ổn thì quốc gia ắt sẽ diệt vong. Tương lai ta sẽ giao nước Hãn cho các con cai quản, nếu anh em các con bất hòa thì sẽ gây họa binh đao, người dân sẽ gặp tai họa rất lớn, sẽ mất đi cuộc sống yên bình mà tự tàn sát lẫn nhau, thương vong vô số. Chẳng phải chỉ vì các con nhất thời trong lòng không vui sao? Tất cả mọi người đặt hết hy vọng và hạnh phúc lên vai chúng ta, hạnh phúc của một cá nhân so với hạnh phúc của ngàn vạn người thì có đáng là gì không? Cho nên làm bất kể việc gì cũng nhất định phải nghĩ đến hậu quả, không được phụ sự tín nhiệm của người dân đối với chúng ta!” Phụ vương còn giảng cho chúng tôi rất nhiều chuyện, bốn anh em chúng tôi rất cảm động. Anh hai đã chân thành xin lỗi anh cả. Tình cảm của bốn anh em chúng tôi càng thêm khăng khít. Những lời giáo huấn của phụ vương khiến cho mỗi binh lính Mông Cổ chúng tôi đều hiểu rõ rằng: Chúng tôi là con dân của vị Thần vĩ đại nhất, Thần đã tuyển chọn chúng tôi, hành động của chúng tôi thể hiện ý chí của Thần tại nhân gian. Dù có hi sinh cũng chẳng qua chỉ là bắt đầu cuộc sống mới trở về với vòng tay ấm áp và yêu thương của Thần mà thôi. Cho nên mỗi binh sĩ Mông Cổ đều là một dũng sĩ không sợ hãi đang sống tại trần gian.
Được rèn luyện qua chiến tranh tàn khốc, bốn anh em chúng tôi đều trở nên thành thục và kiên cường. Trong lần thứ ba tiến đánh nước Tây Hạ, phụ vương không may mắc bệnh qua đời, trước khi lâm chung, phụ vương đã để lại cho chúng tôi sách lược tiêu diệt nước Kim và Tây Hạ, một con người vĩ đại như vậy đã kết thúc cuộc đời truyền kỳ của mình ở tỉnh Cam Túc. Sau khi phụ vương qua đời, thi thể của ông được bí mật mai táng trên đỉnh núi nơi mà ông có thể quan sát được toàn bộ cao nguyên Mông Cổ. Tôi hạ lệnh cấm người ngoài đi vào phạm vi 30 km xung quanh mộ của phụ vương, đồng thời chọn ra bộ tộc dũng mãnh, thiện chiến nhất trong quân đội Mông Cổ để canh gác, bảo vệ vĩnh viễn lăng mộ của phụ vương.
Anh ba kế thừa ngai vị, tiếp tục thực hiện quốc sách mà phụ vương để lại, tiêu diệt nước Kim và Tây Hạ. Trong quá trình tấn công nước Kim, tôi thống lĩnh 7 vạn quân Mông Cổ tiêu diệt toàn bộ 20 vạn quân tinh nhuệ nước Kim tại Hà Nam, khiến cho nước Kim tổn thương nguyên khí trầm trọng, không còn khả năng kháng cự, 3 năm sau mất nước. Đến giữa thế kỷ thứ 13, con trai của tôi là Mông Ca kế thừa ngai vị, đã phái em trai là Hốt Tất Liệt đánh chiếm Nam Tống; phái Húc Liệt Ngột chinh chiến về phía tây, chinh phục thủ đô Baghdad của Ả Rập; tiêu diệt vương quốc Abbas; chiếm lĩnh thủ đô Damascus của Syria ngày nay, thành lập nước Y Nhi Hãn. Con trai thứ của anh cả là Bạt Đô tiêu diệt nước Nga, tấn công Ba Lan và Hungary sáng lập nên nước Kim Trướng Hãn. Trong chiến dịch đánh Ba Lan, con trai thứ tư của anh cả là Long Khắc Lực thống lĩnh hai đạo quân bao vây đội kỵ sỹ Ba Lan, trong lúc chiến đấu cực kỳ ác liệt, tướng Bố Lỗ Suất dẫn đội kỵ binh áo giáp dày gồm ngàn quân chia thành bảy nhánh triển khai đột kích vào trung tâm quân địch từ nhiều hướng, trong trận chiến khốc liệt này, quân Mông Cổ đã đâm xuyên áo giáp của quốc vương Ba Lan, chặt đứt đầu quốc vương Ba Lan mang về doanh trại. Trong chiến dịch Ba Lan, đội kỵ sỹ hoàng gia Pháp, đội thập tự của đoàn kỵ sĩ Teuton (Kị sĩ dòng German), đoàn kỵ sỹ Ba Lan cùng tham gia chiến đấu đều bị tiêu diệt hoàn toàn, gần như không ai sống sót.
Từ xưa tới nay, những người dân du mục Mông Cổ vẫn lưu truyền một câu dự ngôn như sau: Tương lai Thành Cát Tư Hãn sẽ dẫn dắt con cháu của ông quay trở lại nhân gian, vượt qua trùng trùng khó khăn mà người thường không thể tưởng tượng được để lập nên sự nghiệp vĩ đại hơn.
Thật may mắn là tôi cũng sống tại thời đại vĩ đại đó!
Là một đệ tử Đại Pháp trong thời kỳ chính Pháp, gánh vác sứ mệnh lịch sử còn vĩ đại hơn, vũ trụ đều đang đặt kỳ vọng vào chúng ta, chúng ta cần phó xuất hết thảy. Cuối cùng xin kết thúc bằng một câu thơ trong bài thơ “Chanh vanh tuế nguyệt”:
Nhất đại thiên kiêu thần vũ tư, đao cung bách chiến triều tứ di
Hạo khí quân uy nhiếp địch đảm, kim tài thiết mã bình thiên hạ
Dịch nghĩa:
Một thời đại con của Trời thế võ của Thần, đao cung trăm trận chiến khắp bốn phương
Chính khí quân binh khiến kẻ địch khiếp sợ, khí thế hào hùng bình thiên hạ

Câu chuyện luân hồi: Chết trong sơn động thấy chân tướng, tu luyện chính Pháp phá cõi mê



Bài viết của đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục
[ChanhKien.org] Mùa hè năm 2014, khi đang đọc đến phần “Tịch cốc” trong cuốn sách “Chuyển Pháp Luân”, tôi nhìn thấy một cảnh tượng như sau: Tôi từng là một người tu đạo tu hành trong sơn động, sau đó chết trong sơn động. Về sau mỗi khi đọc đến phần này, tôi lại lần lượt nhìn thấy những tình tiết khác nhau, nhìn thấy một số cảnh tượng trên thiên thượng, nhìn thấy sư phụ đạo gia đưa một người giống tôi đi, còn một tôi khác thì chuyển sinh.
Tu luyện trước đây trong lịch sử, người ta đều tu luyện phó nguyên thần, Sư tôn trong khi giảng Pháp đã giảng rõ cho chúng ta điều này.
Trong “Đại viên mãn Pháp”, Sư tôn giảng:
Các công pháp khác vốn được truyền nơi người thường hàng nghìn vạn năm nay đều là tu phó ý thức; nhục thể và chủ ý thức của người tu luyện chỉ có tác dụng làm tải thể. Khi viên mãn phó ý thức sẽ tu lên trên, nó mang theo công mà rời đi; chủ ý thức và bản thể của người tu luyện sẽ không còn gì cả, công một đời tu luyện vậy là bỏ hết. Tất nhiên [trong Pháp Luân Đại Pháp] khi tu luyện chủ ý thức, thì phó ý thức cũng đắc một phần công, nó tự nhiên sẽ đề cao lên theo.
Trong “Chuyển Pháp Luân”, Sư tôn giảng:
Theo Phật giáo giảng, họ vẫn phải nhập lục đạo [luân hồi]. Bởi vì trong thân của họ đã tu xuất một Đại Giác Giả, nên họ đã tích được đại đức, vậy sẽ sao đây? Có thể vào đời tiếp họ sẽ làm quan lớn, phát tài lớn. Cũng chỉ có thể như vậy thôi, đó chẳng phải tu mà như không ư?
Tôi viết lại câu chuyện tu luyện mà mình đã nhìn thấy, hi vọng mọi người thông qua câu chuyện này biết được chỗ mê trong tu luyện trước đây, cũng hi vọng các đồng tu xem xong câu chuyện này sẽ càng thêm tinh tấn hơn.
Trong một tiền kiếp, tôi là một công tử con nhà quyền quý tên là Bạc Liên Sinh, từ nhỏ tôi rất chăm chỉ đọc sách, ước mơ sau này lưu danh thiên hạ. Năm tôi 15 tuổi, một buổi trưa, có một vị đạo trưởng râu tóc bạc phơ, mặt mũi hồng hào bước vào thư phòng tôi, nhìn thấy tôi, ông nói: “Căn cốt không tệ”. Tôi kinh ngạc nhìn ông, cảm thấy kỳ lạ không hiểu sao ông có thể vào được phòng mà không mở cửa hay phá tường. Đạo trưởng nói: “Ngươi dụng tâm đọc sách thật là vất vả, ta có pháp môn kỳ diệu muốn truyền thụ cho ngươi, có thể giúp ngươi trường sinh bất lão, thoát khỏi bể khổ nơi nhân gian, ung dung tự tại”. Tôi lắc đầu nói: “Sinh mệnh tôi là do phụ mẫu ban cho, sao tôi có thể rời xa phụ mẫu được, tôi phải mang vinh quang về cho gia đình để báo đáp ơn dưỡng dục của phụ mẫu”. Đạo trưởng cười nói: “Theo ta tu hành, đắc đại tự tại, trở về báo đáp phụ mẫu, cũng giống như vậy thôi”. Tôi vẫn liên tục lắc đầu, đạo trưởng nói: “Cái lý cổ hủ này đã nhồi nhét vào đầu đệ tử của ta, khiến cậu ấy mắt mù tai điếc, ta đã quyết định thu ngươi làm đệ tử, ngươi có phản đối cũng không được”.
Đạo trưởng tiến đến nắm lấy cánh tay tôi, đập một cái vào đầu tôi, tôi liền cảm thấy đầu óc quay cuồng, giống như một trận mây đen vần vũ, bên tai nghe tiếng gió vù vù, hai mắt lại bị gió thổi đến nỗi không mở ra được. Một lúc sau, tôi có cảm giác chân chạm đất, tôi mở mắt ra nhìn thấy mình đang ở trong một cái động rất sạch sẽ, bỗng thấy trên mặt đất có một đồ hình thái cực rất lớn, bên trong có thứ gì đó đang chuyển động, một năng lượng kỳ lạ, vô hình thu hút tôi, tôi nhìn nó không chớp mắt. Đạo trưởng nói: “Đồ đệ ngoan, cứ xem đi, ta đi làm chút việc”. Đạo trưởng quay người đi, tôi nhìn một lúc cảm thấy bụng đã đói, nhìn trên bàn đá có quả rừng, liền cầm lên ăn, thấy khát liền lấy nước trong hồ lô uống, sau đó lại nhìn cái đồ hình, càng xem càng cảm thấy trong tâm tĩnh lặng, không nghĩ gì nữa, có lúc cảm thấy trong đầu có thứ gì đang chuyển động, xem một lúc thấy buồn ngủ, liền ngủ trên cái giường gỗ ở trong động, sự việc này cứ lặp đi lặp lại, cũng không biết là bao lâu nữa.
Một hôm, tôi đột nhiên nhớ đến phụ mẫu, trong tâm cảm thấy náo động, tôi muốn về nhà, liền thử tìm cửa ra khỏi động, đi một vòng vẫn không tìm thấy cửa ra, trong lòng nôn nóng. Lúc này có một giọng nói nói với tôi: “Hãy tu hành cho tốt, đừng nhớ nhà nữa”. Tôi thấy trong động chỉ có mình mình, giọng nói đó từ đâu đến vậy, dường như từ trong đầu tôi phát ra, tôi ngẩng đầu nhìn xung quanh không thấy gì, cảm thấy buồn. Tôi lại đi vào trong động tìm đường ra, vẫn không tìm thấy, tôi mệt nằm lên giường ngủ mất.
Tôi nhìn thấy tôi, tinh thần phấn chấn, chân chạy như bay về nhà, đến cửa nhà thì bị chặn lại, lính gác cửa nói: “Đạo đồng này ở đâu đến? Không được vào”. Tôi nhìn lại thì thấy mình đang mặc áo đạo đồng, tôi nói: “Ta là công tử”. Lính gác cười nói: “Ngươi xem xem, công tử đến kia kìa”. Tôi nhìn thấy một công tử trong nhà đi ra, trông rất giống tôi, mặc áo dài gấm. Tôi ngẩn người ra, tên gác cửa đẩy tôi ra, tôi ngã sóng soài trên đất.
Lúc này tôi nghe thấy bên tai có tiếng gọi: “Mau tỉnh dậy đi, đừng ngủ nữa”. Tôi vừa mở mắt thì trông thấy đạo trưởng, tôi nắm lấy tay ông ấy nói: “Con muốn về nhà”. Đạo trưởng nói: “Chẳng phải con vừa về nhà đó sao, bị lính gác đuổi đi, lại còn ngã đau, về nhà thì có gì hay chứ?”, tôi hơi chút đau lòng, đạo trưởng nói: “Sao con còn mê muội vậy, người khác muốn bái ta làm sư, ta đều không quan tâm. Ta thấy con căn cơ tốt mới thu nhận con. Thế này đi, ta mang đồ ăn con thích đến, để trên bàn đó, con ăn hết rồi ta sẽ đưa con về nhà”. Tôi nghe xong rất vui, chạy đến bàn đá, thấy đầy đồ ăn thịnh soạn, tôi cầm đũa lên bắt đầu ăn, nhưng đồ ăn đưa vào miệng đột nhiên trở nên rất khó ăn, tôi không ăn nổi đành dừng lại nhìn đạo trưởng.
Đạo trưởng cười ha hả nói: “Con ở trong động tu hành đã hai tháng rồi, những thứ mà con được ăn và uống thì quan chức quyền quý đều không được ăn, thân thể con biến hóa rất nhiều rồi, nếu không tin, con hãy cùng ta đi ra ngoài, xem xem năng lực của con thế nào”. Tôi bán tín bán nghi theo đạo trưởng ra ngoài sơn động, đạo trưởng chỉ một cái cây đại thụ cao hơn 20 mét nói: “Con hãy bay lên hái quả trên cây kia xuống đây”.  Tôi vừa rướn người lên thì phát hiện cơ thể mình rất nhẹ nhàng, tôi bay lên cây hái quả rồi lại bay xuống. Đạo trưởng lại nói: “Phía kia có nước suối, con hãy dẫn nước đến đây”, đạo trưởng bảo tôi cách làm, tôi làm theo cách ông ấy nói, tay chỉ vào một khe nước suối ở xa, liền nhìn thấy dòng nước suối từ xa bay đến, tạo nên một đường nước, đạo trưởng đưa cái hồ lô ra, nước suối liền chảy vào hồ lô, điều khiến tôi kinh ngạc là hồ lô đựng được rất nhiều nước. Đạo trưởng nói: “Được rồi”, tôi dừng tay lại. Đạo trưởng đặt hồ lô xuống đất, lại tiện tay nhặt mấy hòn sỏi, nắm tay lại, chuyển động hai vòng, ý bảo tôi đưa tay nhận lấy, tôi giơ tay ra nhận được mấy quả trứng gà vẫn còn âm ấm, tôi vô cùng kinh ngạc. Đạo trưởng nói: “Đây chỉ là chút tiểu năng tiểu thuật, không là gì cả, con bái ta làm thầy, ta sẽ truyền cho con Đại Đạo, có thể sánh với Thần tiên, đắc đại tự tại”.
Tôi nghĩ rồi quỳ xuống đất nói: “Đồ đệ nguyện bái ngài làm thầy, nhưng lại nhớ thương phụ mẫu, xin thầy khai thị”. Đạo trưởng nghe xong cười lớn, thuận tay vẽ một vòng trên không trung nói: “Con hãy tự mình xem đi”. Tôi thấy trong vòng tròn có làn sương mù, sương mù tan ra, xuất hiện nhà của tôi, tôi thấy tôi lấy vợ, sinh con. Sau đó phụ thân tôi cưới một người làm thiếp, thiếp sinh được một con trai. Hơn 10 năm sau tôi mắc bệnh, nằm liệt giường, thiếp của cha bỏ độc vào thức ăn của tôi, tôi chết. Bà ấy lại bỏ độc vào đồ ăn của mẹ tôi, mẹ tôi qua đời, thiếp trở thành nữ chủ nhân, vợ tôi bị đuổi về nhà mẹ đẻ, thiếp của cha ngược đãi con trai tôi, con trai tôi mắc bệnh lao phổi mà chết.
Cảnh tượng đến đó là hết, đạo trưởng nói: “Một đời người như vậy có gì thú vị chăng?”. Tôi không nói được gì, đạo trưởng mở nắp hồ lô dốc xuống, treo trên cành cây nói: “Giờ nước trong hồ lô còn nóng, con tắm xong hãy bái ta làm thầy”, tôi tắm nước nóng rất thoải mái, rồi mặc bộ y phục của Đạo gia.
Tôi khấu bái đạo trưởng, gọi ông là “sư phụ”, đạo trưởng nâng tôi dậy nói: “Cuộc đời sau này của con ta đã an bài lại cho con rồi, con không được lại nghĩ linh tinh nữa. Ta dùng viên ngọc con đeo diễn hóa ra một con khác, nửa năm sau nó sẽ sinh bệnh mà chết, cha mẹ con nợ thiếp của cha con một mạng nên phải hoàn nghiệp”. Tôi cảm tạ sư phụ đã điểm hóa, rồi theo sư phụ trở vào động tu hành.
Sư phụ bảo tôi ngồi song bàn, trói tay tôi lại phía sau lưng, chân cũng trói lên. Tôi nói: “Sư phụ không cần trói đâu ạ”. Sư phụ cười nói: “Con luyện công cho tốt, ta đi một lát”. Sư phụ đi rồi, tôi theo tâm pháp sư phụ truyền thụ mà luyện công, lúc đầu rất thoải mái, dần dần chân cảm thấy hơi đau, càng ngày càng đau, muốn bỏ chân ra nhưng tay không thể cử động được, tôi đau đến nỗi toàn thân vã mồ hôi, xương như gãy ra, tôi động bên này bên kia, rời khỏi cái nệm. Ý thức tôi hơi mơ hồ, cảm giác đau đớn lại càng thêm chân thực, giống như dao róc vào thịt, sau đó lại cạo vào xương tôi, tôi đau đến nỗi cắn rách cả môi, không chịu nổi ngất đi.
Cũng không biết bao lâu, tôi nghe thấy tiếng sư phụ: “Sao con lười nhác vậy, sao không luyện công cho tốt?” Tôi không dám trả lời. Sư phụ nói: “Mắc bệnh, bị đổ thuốc độc còn khổ hơn thế này, vừa muốn ung dung tự tại lại muốn thành Thần, sao có thể như vậy được?” Sư phụ nâng tôi ngồi dậy, bảo tôi mở miệng ra, sư phụ cho một viên đan dược vào miệng tôi, dạy tôi hai câu khẩu quyết, rồi sư phụ lại đi.
Thoải mái được một lúc, rồi cơn đau lại quay trở lại, khiến tôi khó mà chịu nổi, tôi động đậy thế nào dây thừng cũng không mở, tôi đau đến nỗi lại ngất đi. Sự việc như vậy diễn ra vài lần, một hôm sư phụ nóng mắt cầm roi lên vụt tôi, vừa đánh vừa nói: “Nếu con không chịu nổi cái khổ này thì hãy mau về nhà đi, ta làm gì có đệ tử như con, sư phụ vừa đi khỏi là con lăn ra ngủ”. Tôi bị đánh đến nỗi máu thịt nhầy nhụa, sư phụ vẫn hỏa khí ngùn ngụt, tôi cảm thấy áy náy trong lòng, không nhịn nổi khóc òa lên, sư phụ càng tức giận, sư phụ cởi dây trói cho tôi nói: “Khóc cái gì? Ta không cần con nữa, con mau chóng về đi, về lấy vợ đẹp đi, dù cho phải uống thuốc độc mà chết cũng không phải hàng ngày chịu cái khổ này”.
Tôi nước mắt lưng tròng quỳ trước mặt sư phụ nói: “Sư phụ, con sai rồi, dù thầy có đánh chết con, con cũng không trở về, xin sư phụ bớt giận”. Tôi liên tục dập đầu, sư phụ nói: “Con ngẩng đầu lên đi”, Tôi ngẩng đầu lên nhìn sư phụ, sư phụ nhìn tôi nói: “Con sinh ra ở gia đình quyền quý, không chịu được khổ, thôi hãy về nhà đi”. Sư phụ cởi dây ra, đặt sang một bên, chán ngán thất vọng nói: “Ta phải đi giải nỗi sầu này thôi, thu nhận một đệ tử không như ý thật tức chết đi được”. Sư phụ đi rồi, cái tâm tu đạo của tôi lại càng kiên định, tôi lấy dây thừng, lại nhặt thêm vài hòn đá, đặt đá xung quanh đệm ngồi, đặt chân song bàn, dùng dây buộc lại, thề rằng: “Xin Thần linh gia trì cho con, con nhất định không được ngủ mất”.
Ngồi song bàn được một lúc là lại đau rất khó chịu, nhưng dù đau thế nào tôi vẫn bất động, nhẫn qua được một trận, lại thoải mái, một lúc sau lại đau dữ dội. Lúc này tôi nghe thấy có tiếng phụ nữ: “Sư huynh có nhà không? Ta đến rồi”. Lời chưa dứt, một đạo cô tay cầm phất trần xuất hiện. Cô ta nhìn tôi nói: “Cậu chính là đệ tử mà sư huynh ta thu nhận à, một đệ tử rất tốt, vậy mà bị sư huynh của ta hành hạ đến nông nỗi này, cậu dứt khoát phải bái ta làm thầy, ta sẽ dạy cậu”. Nói xong cô ta lấy ra một cái hồ lô, uống một ngụm nước, sau đó phồng miệng nhổ một hơi vào người tôi, tôi cảm thấy thân thể vô cùng thoải mái, phát hiện chỗ đau do bị roi đánh không còn nữa, chân cũng không đau nữa. Đạo cô nói: “Sư huynh tính khí nóng nảy, ngược đãi đệ tử, chi bằng cậu bái ta làm thầy, đi với ta vui vẻ thoải mái vừa có thể học được rất nhiều những thứ thuật loại, lại không phải chịu khổ”. Tôi nói: “Một ngày làm thầy, cả đời làm cha. Ta không thể phản bội sư phụ”, đạo cô giận tím mặt nói: “Ta sẽ phá vỡ động phủ, ném ngươi vào đầm sâu, cho cá ăn thịt ngươi”. Tôi nói: “Cô làm vậy thì không phải người tu đạo”. Đạo cô vừa tức giận bỏ đi, sư phụ lập tức xuất hiện, sư phụ nhìn tôi nói: “Đệ tử tốt, sư phụ không nhìn nhầm con”.
Từ đó về sau, những ngày tháng đau đớn đó cũng dần qua đi, sư phụ đối xử với tôi rất hòa ái, thường kể cho tôi nghe những câu chuyện đạo thuật, Thần tiên, dạy tôi luyện các thứ thuật loại, ông còn nhắc đi nhắc lại: “Nội dung quan trọng của môn pháp chúng ta là thức thần tử, nguyên thần sinh, thức thần khiến con người mê mờ, sinh ra các loại dục vọng, ham muốn, phải ức chế thức thần, khiến nó không phát huy tác dụng, nguyên thần mới được đại tự tại”. Năm năm sau, một hôm sư phụ mang ra một cuộn sách gấm, nói với tôi: “Ta sẽ giao bộ bí kíp này cho con, 20 ngày sau con sẽ vào núi tu hành, bây giờ con xuống núi đi”.
Tạm biệt sư phụ, tôi xuống núi chuẩn bị một số thứ, trên đường đi gặp một người tu hành, ông ấy nói với tôi: “Thứ mà đạo hữu đang mang vô cùng trân quý, rực rỡ ánh quang, có thiên quan đi cùng. Nhưng cách đây không xa có lạn quỷ đến đòi nợ, mắng chửi, đạo hữu tu hành cũng không dễ dàng gì”. Tôi nói: “Tu hành sao có thể thoải mái được, tôi quyết tâm tu hành, có sư phụ bảo hộ, vứt bỏ tạp niệm, nhất tâm tu hành”. Người tu hành nói: “Hai bên bờ Tam Hiệp của sông Trường Giang có rất nhiều sơn động, đây là nơi rất tốt để tu hành, cậu mau đến đó đi”. Tôi cảm tạ người tu hành, đi được mấy bước, vô tình quay đầu nhìn lại thì không thấy người tu hành đâu nữa, trong tâm nghĩ: “Chắc là Thần linh trong bộ bí kíp đã điểm hóa cho mình phải tu hành ở đó”.
Còn ba ngày nữa mới đến ngày hẹn với Sư phụ, nhưng tôi cảm thấy thời gian đã chín muồi rồi. Tôi đột nhiên muốn về thăm nhà, tôi về đến quê nhà, mặc một bộ quần áo rách rưới, đến trước cửa nhà thì nghe gia nhân nói: “Nhị thái thái và tiểu công tử đến”. Tôi nghe nói liền quay đầu bỏ đi, ngôi nhà này đã không còn bất cứ lưu luyến nào đối với tôi nữa. Khi quay đầu đi, tôi nhìn thấy một bé gái bốn tuổi nhà hàng xóm chạy đến, người hàng xóm không nhận ra tôi, nhưng cô bé kia nhìn thấy tôi thì bỗng cười, nụ cười vô cùng thuần khiết, tâm tôi đột nhiên xao động.
Tôi dùng thần hành thuật đi đến Tam Hiệp, tìm một sơn động, dùng công năng đóng cửa động lại, bắt đầu tu hành. Trước khi đả tọa tu hành, tôi đã thề: “Tôi quyết chí ngồi trong động này tu hành, nếu không tu thành thề không đứng dậy, nếu phá vỡ lời thề sẽ bị sấm đánh chết”.
Trong quá trình tu hành, liên tục xuất hiện những cảnh tượng can nhiễu, có lúc nhìn thấy phụ mẫu kêu khóc, tôi bất động tâm; có lúc tai nghe thấy cửa sơn động bị mãnh hổ cào bới, phì phò bực tức, tâm vẫn bất động; có lúc thấy rồng bay vào động, ngồi lên người tôi, tôi vẫn bất động; có lúc thấy thiên nữ mang đồ ăn đến đặt vào động, tâm vẫn bất động; có lúc thấy quan sai địa ngục đến nói: ‘Mời ông đến minh phủ, tên của ông đã ở trong sách tử rồi, sao ông lại còn đến đây tu hành’, tôi vẫn không động. Thiên địa nhân thần quỷ súc … xuất hiện trước mắt, tôi không mê mờ và không đứng dậy, tai nghe thấy một loạt âm thanh như vỡ ra, tôi vẫn không mở mắt. Niềm vui trong tu luyện cũng có lúc thể hiện ra, tôi thấy tôi vân du nơi chân trời với tốc độ bay nhanh không thể tưởng tượng, sông núi, đất trời lần lượt hiện ra trước mắt. Trong thoáng chốc tôi cảm thấy thân thể to lớn cự đại, chứa cả núi cao sông rộng.
Một hôm, trước mắt tôi đột nhiên xuất hiện một cô gái, cô ấy nói với tôi: “Tôi là cô gái nhà hàng xóm đã gặp ngài lần trước, từng có duyên với ngài, tuổi vừa 16, tôi mong muốn tu hành, muốn bái ngài làm thầy.” Tôi không nói lời nào, cô gái nói: “Từ nhỏ tôi đã có thể nhìn thấy rất nhiều sự việc kỳ lạ, không lưu luyến thế tục, vẫn luôn có cao nhân chỉ bảo tôi tu hành. Sau đó cao nhân giúp tôi tìm được ngài, tôi muốn tu luyện, thỉnh cầu ngài chỉ dạy”. Tôi như không nghe thấy gì, vẫn bất động.
Cô gái này ngày nào cũng đến, đợi một canh giờ, có lúc im lặng không nói, có lúc líu lo nói chuyện, tâm tôi vẫn bất động. Hôm nay cô gái lại đến, không nói lời nào, ngồi xuống bên cạnh đả tọa, mệt thì lại dựa vào động, ban đêm thì nằm nghiêng mà ngủ, không nói một lời. Tôi tu hành đã nhiều năm, nhìn thấu nhân duyên thế sự, riêng việc này lại không thể hiểu nổi. Nhìn cô gái đó có máu có thịt, không phải thứ ma quỷ ngoại tà, tâm tôi rất kinh ngạc.
Một hôm, cô gái đó quỳ trước mặt tôi nói: “Tôi nhất tâm tu hành, nếu sư phụ không nhận tôi, tôi sẽ quỳ ở đây không đứng dậy, dù cho chỉ còn bộ xương khô cũng thề không đứng dậy”. Cô gái quỳ ở đó rất lâu, nhẫn chịu thống khổ. Tôi nhắm mắt đả tọa nhưng lại có thể nhìn thấy làn da cô gái đang nổi những nếp nhăn. Tôi quyết tâm coi đây là ma huyễn, không động tâm.
Một hôm, cô gái nói với tôi: “Ngày xưa Khương Tử Nha kiếp trước từng là một con gấu bay, muốn bái Nguyên Thủy Thiên Tôn làm thầy, Nguyên Thủy Thiên Tôn thấy động vật thì không cho phép tu luyện, từ chối thu nhận gấu bay. Con gấu bay đó ý chí kiên định, quỳ lạy ở đó bất động. Nguyên Thủy Thiên Tôn nằm trên giường ngủ một giấc, lúc tỉnh dậy đã 800 năm trôi qua, thân thể gấu bay trên mặt đất đã hóa thành tro bụi không dấu vết, chỉ có một nguyên thần vẫn cuộn tròn trên mặt đất. Nguyên Thủy Thiên Tôn cảm động nói: “Ngươi hãy chuyển sinh thành người đến bái thầy, ta nhất định sẽ nhận ngươi” bây giờ tôi là thân người muốn tu luyện, sư phụ duyên cớ gì không nhận tôi? Tôi chết rồi, nếu kiếp sau chuyển sinh thành đá thì lỡ mất cơ duyên tu luyện, đây chẳng phải là lỗi của ngài hay sao?”
Lời cô ấy khiến tôi suy nghĩ: “Cô ấy nói có lý, nhưng nếu ma quỷ lợi dụng cô ấy để mê hoặc ta, nếu ta đứng dậy thì sẽ chết trong động, ta hãy thận trọng.”
Tôi vẫn ngồi đả tọa, trước mắt lại xuất hiện nụ cười thuần khiết của bé gái nhỏ và hình ảnh cô thiếu nữ đang tiến đến cái chết, tôi nghĩ: “Làm thế nào đây?” Tôi do dự mấy ngày, việc đả tọa đã bị can nhiễu nghiêm trọng, đột nhiên một giọng nói dội vào đầu tôi: “Nửa tháng sau hãy quyết định”. Giọng nói đó rất mạnh mẽ, tâm tôi định lại được, hình ảnh cô gái trước mắt biến mất.
Rất nhanh đã đến thời gian nửa tháng, trước mắt tôi xuất hiện một dòng chữ vàng: “Ngày tu thành, lúc thân thể chết”. Tôi không cảm thấy ngạc nhiên, vì tu thành rồi phải vứt bỏ cái thân thể này. Trước mắt tôi xuất hiện một xa giá, tôi nhìn thấy hạc tiên, nhìn thấy thiên quan, trong rất nhiều thiên quan thình lình có một người, chính là cô thiếu nữ trong động.
Tôi vô cùng kinh ngạc, trong đầu xuất hiện một giọng nói: “Mau mở mắt ra xem cô gái đang quỳ, hãy cứu cô ấy, ngươi có con đường của ngươi”. Tôi mở mắt nhìn thấy cô gái đó vẫn quỳ như cũ và đang hấp hối. Bởi sự thúc giục của suy nghĩ kia, tôi không nghĩ ngợi gì nữa, đột nhiên ngồi dậy.
Trong phút chốc khi tôi ngồi dậy, tôi nhìn thấy Thần tiên đầy trời, họ đều đang nhìn tôi, giống như đang chờ đợi thời khắc này. Một vị Thần tiên tay mở ra lời thệ ước của tôi khi vào sơn động, một vị Thần khác tay phóng một chùm sấm sét về phía tôi. Tôi lập tức bị sét đánh chết trong động, tôi cảm thấy tôi xuất ra từ trong thân thể mình, dừng lại trong không trung, thân thể nhẹ nhàng.
Tôi nhìn thấy thân thể đầy máu của mình ở trong động, nhìn thấy cô thiếu nữ kia kỳ thực là một tảng đá đen trên thiên thượng chuyển sinh thành, tảng đá đó có tên là Khởi Tọa thạch. Từ khi tôi bắt đầu tu luyện, Khởi Tọa thạch liền chuyển sinh, mục đích cuối cùng của nó là muốn dụ tôi rời khỏi chỗ, hoàn thành sứ mệnh mà Thần tiên trên thượng giới trao cho nó.
Điều khiến tôi buồn nhất là tôi trông thấy một tôi khác trông giống hệt như tôi, vẻ mặt hưng phấn, tôi nhìn thấy trên thân anh ta mang theo rất nhiều thứ công năng và thuật loại tu luyện được, bởi vì khi đả tọa tôi nhìn thấy tôi khi rời thân thể từng sử dụng những thứ công năng và thuật loại này. Tôi nhìn thấy sư phụ, nhìn thấy người mà tôi đã bái làm sư, sư phụ đưa anh ta đi trên loan giá, trong tâm tôi vô cùng buồn bã.
Một vị Thần tiên nói với tôi: “Ngươi lập tức chuyển sinh đi, kiếp sau sẽ được hưởng vinh hoa phú quý”, tôi hỏi: “Tôi tu luyện không phải vì vinh hoa, tại sao sư phụ lại không đưa tôi đi? Người sư phụ đưa đi là ai?” Các vị Thần tiên đều không nói gì. Một vị Thần tiên nói: “Ngươi mau chuyển sinh đi, đừng để lỡ thời gian”. Khi tôi bị một vị Thần tiên trong số đó dẫn đi, tôi nghe thấy một vị khác nói: “Điều này không công bằng cho lắm”, một vị Thần tiên khác nói: “Đều làm vậy cả mà, đều đã định rồi, không thể để sơ suất được. Người tu luyện này có nhìn thấy cũng không hiểu là chuyện gì, một khi đầu não bị tẩy rửa thì sẽ quên hết”.
Nghe họ nói chuyện, tôi đột nhiên cảm giác một sự thương tâm và cay đắng không lời nào tả xiết, tôi nhớ lại quá trình tu luyện của mình, thật khó khăn, vất vả, kết quả lại rơi vào chuyển sinh, quả là một sự vô vọng, thậm chí là tuyệt vọng. Vào thời khắc đó, tôi nghĩ đến rất nhiều sự việc, tư duy của tôi trở nên linh hoạt, phóng khoáng lạ thường, tôi liên kết một số sự việc lại với nhau, trong tâm có rất nhiều suy đoán, tôi cũng cảm thấy suy đoán của mình hợp lý.
Tôi nghĩ đến trước khi bái sư, giọng nói mà tôi nghe được: “Hãy tu hành cho tốt, đừng nhớ nhà nữa” và giọng nói trước khi tôi chết: “Mau mở mắt ra xem cô gái đang quỳ kia, hãy cứu cô ấy, ngươi có con đường của ngươi”, hai giọng nói này là của cùng một người nói, những ý nghĩ và giọng nói xuất hiện vào lúc then chốt đều phát ra từ chỗ tôi, lẽ nào chúng phát ra từ một tôi khác, hắn ta đang thao túng tư tưởng của tôi, không chế thân thể của tôi?”
Tôi nghĩ: “Tôi khó khăn, vất vả tu hành, lại bị rơi vào chuyển sinh, một sinh mệnh khác lại đắc chính quả, anh ta là ai? Có phải sinh mệnh kia đã mượn thân thể tôi để tu luyện không? Lại có chuyện như vậy sao? Sư phụ nói đã thay đổi cuộc đời của tôi, nhưng thực sự lại thay đổi cuộc đời của một sinh mệnh khác, bởi vì tôi vẫn phải nhập luân hồi mà. Sư phụ nói đã an bài con đường tu luyện cho tôi, có phải việc tu luyện của tôi đã chủ định là được an bài như thế này: tôi nhất định sẽ thề, tôi nhất định sẽ chết trong động, ngay cả hòn đá kia cũng đã được an bài từ trước rồi, hết thảy đều đã định xong rồi, tôi chỉ làm theo hết thảy những an bài này, người được hưởng lợi lại là người khác, sự an bài này chẳng phải quá vô tình sao? Chẳng phải tôi đã bị lợi dụng sao?”.
Những suy đoán của tôi không ai có thể khẳng định, những nghi vấn của tôi không có ai trả lời, tôi rất nhanh chóng chuyển sinh.
Từ khi biết về câu chuyện này đến nay đã hơn ba năm, tôi vẫn trì hoãn không muốn viết bài viết này, dù đã viết rồi, mà khi viết đến đoạn qua đời trong động, tôi cũng phải dừng bút rất lâu, trong tâm rất bi thương, không muốn viết tiếp, cố gắng mãi cuối cùng cũng viết xong. Tôi nghĩ: “Mình đang trốn tránh, không muốn khuấy động nỗi đau trong ký ức, không muốn đối diện với nỗi thống khổ và bất lực lúc đó”.
Một số ký ức về tu luyện trong tiền kiếp đều có thể hiện trong kiếp này. Còn nhớ sau khi tu Đại Pháp, đọc “Pháp Luân Đại Pháp nghĩa giải”, Sư tôn giảng:
Đạo gia dẫn dắt đồ đệ chỉ dẫn một người hai người, trong đó chỉ có một người là chân truyền. Quản đồ đệ rất nghiêm, hơi một chút là đánh đập đồ đệ, họ không quan tâm chư vị chịu đựng hay không, cứ khiến chư vị vượt qua. Cho nên họ thường đều chọn biện pháp mạnh, buộc chân đệ tử lại, trói tay ra sau lưng, tự chư vị không tháo ra được, có nằm xuống chư vị cũng không tháo ra được, do đó có những [đồ đệ] đau quá ngất đi. Quá khứ là có làm như thế, tu luyện thời đó rất là khổ.
Đọc đến đây, trong tâm tôi xúc động sâu sắc, tràn ngập cảm giác đau đớn khôn cùng, cảm thấy loại thống khổ đó thực sự xuất hiện trên thân thể tôi, trong tâm tôi run rẩy. Khi đọc đến phần “Ai luyện công ai đắc công” trong sách “Chuyển Pháp Luân”, tâm tôi lại tràn ngập sự cảm kích không lời nào diễn tả nổi đối với Sư tôn, nước mắt không ngừng tuôn rơi, tôi cảm động vì tôi giờ đây thực sự có thể tu luyện, có thể trở về, tôi cảm thấy Sư tôn mới là người thực sự nghĩ cho đệ tử.
Tu luyện trong quá khứ phải chịu rất nhiều thống khổ, nhưng lại không được tu luyện bản thân thực sự. Trong câu chuyện kể trên, khi hòn đá ở tầng thứ 28 trong Tam giới, nó đã vô tình bị tôi gạt xuống nước, nếu rơi vào nước thì nó sẽ không trở ra được, không thể thu được khí tinh hoa của trời đất, do vậy ở dưới nước nó đã vô cùng căm ghét tôi, cho nên nó đã nghe theo an bài của Thần tiên chuyển sinh thành thiếu nữ dụ tôi rời khỏi chỗ đả tọa. Xem ra mọi việc gặp phải trong tu luyện đều không ngẫu nhiên.
Trong tu luyện Đại Pháp, Sư tôn đã ban cho chúng ta hết thảy những thứ tốt nhất, đã thiện giải hết thảy những ân oán, lại còn bảo hộ chúng ta, cứu độ chúng ta, chúng ta sao có thể buông xuôi được? Huống hồ Sư tôn đã giảng rõ cho chúng ta cơ chế và kết quả:
Tu luyện như thuở đầu, thì tất thành (Giảng Pháp ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới [2014]).
Tôi viết ra câu chuyện mà mình nhìn thấy, để mong thức tỉnh các đồng tu, người tu hành tu luyện trong quá khứ nếu không giữ vững bản thân sẽ mất đi sinh mệnh, nhưng dù tu luyện thế nào cũng đều là tu phó nguyên thân, kết cục đều đã được an bài cả rồi, tu tới tu lui thì chủ nguyên thần cũng không đắc được chính quả, đều tu mà như không, chủ nguyên thần chỉ là vật tải thể. Cho nên chúng ta càng phải trân quý cơ duyên tu luyện Đại Pháp, chỉ có chân chính tu luyện bản thân thật tốt, hướng nội vô điều kiện, mới không phụ ơn từ bi cứu độ của Sư tôn, mới có thể trở về ngôi nhà nơi thiên thượng.

Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạo



Tác giả: Thiện Dũng
[ChanhKien.org]
Lời dẫn
Bài viết này do một đồng tu nhờ tôi viết và chỉnh lý, kể lại quá trình tu luyện mà đồng tu đó đã trải qua trong đời trước. Vào thời Trung Quốc cổ đại, người tu luyện phải trải qua rất nhiều gian khổ. Chúng ta, những người tu luyện Đại Pháp của vũ trụ, được Sư tôn từ bi chăm sóc, chỉ trong vòng mấy chục năm tu luyện ngắn ngủi có thể có hi vọng tu thành đạo, so với họ thì chúng ta quả là vô cùng may mắn.
Tu luyện Đông Chu Đại Đạo
Phần thứ nhất
Vào những năm cuối thời Đông Chu, vua quan vô đạo, chư hầu cát cứ, quần hùng tranh giành Trung Nguyên. Thiên tai, nhân họa hoành hành, dân chúng thống khổ, lầm than.
Tôi chuyển sinh vào một gia đình nô lệ ở vùng núi Thái Sơn, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Khi mới lớn lên, 12 tuổi tôi phải chăn dê cho nhà chủ. Vào mùa hè trong một trận mưa bão, số lượng đàn dê bị thất lạc quá nửa, vì sợ bị đánh phạt nên tôi không dám về nhà chủ nữa. Khi lên núi tìm đàn dê, tôi bị lạc trong rừng sâu, đi bộ ba ngày, vừa đói vừa giá rét, tôi ngã gục dưới một gốc cây cổ thụ. Bỗng tôi nghe thấy một tiếng động lạ trong bụi rậm, ngoảnh đầu lại thấy một con mãnh hổ trắng đang tiến lại gần. Nó chuẩn bị nhe nanh cắn tôi, bỗng nhiên có một người quát: “Lục Nhi, dừng lại”, con hổ trắng ngoan ngoãn chạy về nơi phát ra tiếng nói và nằm phủ phục ở đó.
Một kỳ nhân mặc trang phục kỳ dị từ trong bụi rậm đi ra. Nhìn thấy tôi nằm dưới gốc cây, người đó hỏi: “Cậu bé, tại sao lại ở đây?” Tôi đáp: “Cháu làm mất đàn dê của ông chủ nên phải vào rừng tìm dê, cháu bị lạc trong rừng đã ba ngày rồi”. Vị kỳ nhân búi tóc cao trên đỉnh đầu và cài một cái trâm bằng trúc, ông nói: “Hãy theo ta”. Thế là tôi đi theo ông ấy vào rừng, con hổ trắng cũng đi theo hai người chúng tôi. Đi được nửa ngày, chúng tôi đến một căn nhà cỏ tranh ở giữa rừng, căn nhà có hai phòng. Kỳ nhân lấy nước cho tôi, rồi sắp xếp chỗ ngủ cho tôi. Con hổ trắng đứng ở ngoài cửa không vào trong, nó cứ nhìn tôi tỏ vẻ hiếu kỳ. Một lúc lâu sau, nó vẫn nằm ở cửa và quan sát tôi. Kỳ nhân bước vào trong phòng, rồi hỏi tôi: “Cháu bé, cháu tên gì?” Tôi đáp: “Cháu không có tên”. Kỳ nhân trầm mặc suy nghĩ, ánh mắt lóe lên, nói: “Ta là Thần tiên, con và ta có duyên. Con có thể ở lại đây để tu luyện thành tiên, nếu con không muốn, ta có thể đưa con trở về nhà”. Tôi nghĩ: “Mình làm mất của chủ nhân 74 con dê non, nếu quay về thì thể nào cũng bị chủ nhân trách phạt, sống chết thế nào còn chưa biết, mình quyết sẽ không quay về”. Tôi đứng dậy hành lễ với kỳ nhân, tôi quỳ xuống nói: “Thưa Thần tiên, con quyết không trở về, xin ngài thu nhận con làm đồ đệ, con nguyện đi theo Thần tiên”. Kỳ nhân vuốt râu, mỉm cười nói: “Được, ngày mai ta sẽ thu con làm đồ đệ. Con không phải sợ con hổ này, con hổ này tên là Lục Nhi, nó cũng là Thần thú”. Kỳ nhân vẫy tay với Lục Nhi, con hổ đi vào phòng và bước đến trước mặt ông, ông chỉ tay vào tôi và nói với con hổ rằng: “Đây là đồ đệ của ta, ngươi hãy chăm sóc cho cậu ấy”. Con hổ như hiểu tiếng người, quay người bước đến dựa vào tôi biểu thị sự thân thiết, tôi rất vui mừng, lấy tay vuốt lưng nó, nó cũng dịu dàng dụi đầu vào tôi.
Ngày hôm sau, sư phụ chính thức thu nhận tôi làm đồ đệ, sau khi tôi bái tổ sư của các thời đại, hành đại lễ với sư phụ, sư phụ nói: “Pháp môn tu luyện của chúng ta là pháp môn Vô Cực của Tiên Thiên Đại Đạo. Vũ trụ bản nguyên hỗn độn gọi là vô cực; sau đó sinh ra vân khí gọi là hữu cực; thanh khí (khí tốt) thăng lên, trọc khí (khí xấu) hạ xuống gọi là thái cực, thái cực sinh ra vạn vật… Ta là chưởng môn đời thứ 374 của pháp môn Vô Cực, pháp hiệu là “Tịnh Huyền”, con là đệ tử đời thứ 375, pháp hiệu là “Đạo Minh”, hãy nhớ kỹ!” Sư phụ lấy ra một thanh kiếm màu đen đưa cho tôi và nói: “Kiếm này có tên là ‘Tịch Thiên Kiếm’, có nghĩa là khai thiên tịch địa. Kiếm mà ta sử dụng mang tên ‘Thánh Thiên Kiếm’, có nghĩa là thánh kiếm mà thánh nhân sử dụng để thay trời hành đạo”. Sư phụ nói tiếp: “Pháp môn chúng là pháp môn tính mệnh song tu thượng thừa của Đạo gia. Trước tiên con phải tu luyện ngoại công bổ trợ cho nội lực. Ta sẽ truyền cho con Ngũ Hành quyền”. Sư phụ lấy một viên đan màu đỏ đưa cho tôi uống và nói: “Sau này cứ một tháng uống một viên. Đan dược này ta đã dùng các dược liệu quý của thiên hạ, mất gần 100 năm mới luyện thành, nó có tác dụng thông kinh hoạt lạc, nâng cao tố chất thân thể. Người thường dùng ba viên có thể sống thọ đến trăm tuổi. Sau khi uống vào, tôi cảm thấy bụng ấm nóng, rồi dần dần lan ra khắp tứ chi, không còn cảm thấy buồn ngủ và đói nữa.
Ngày tiếp theo, sư phụ dạy tôi Ngũ Hành quyền. Buổi chiều, Lục Nhi bắt được hai con thỏ rừng, tôi nhặt một ít củi khô, hầm chín thịt thỏ và mời sư phụ cùng ăn, sư phụ nói: “Ta không ăn”. Ông lấy một viên đan dược hòa với nước uống, sau đó vào trong phòng ngồi đả tọa không nói gì. Tôi lại mang một ít thịt ra ăn cùng với Lục Nhi, nhưng nó cũng không ăn, ăn xong tôi đi ngủ. Cứ như thế, tôi luyện quyền và luyện trạm trang hơn 100 ngày, sư phụ lại dạy tôi một số phương pháp đả tọa điều tức. Vài ngày sau, sư phụ dựng một cây cọc gỗ lớn trước nhà cỏ, sau đó gọi tôi đến và nói: “Con cần luyện thông kinh điều tức, không được để bị can nhiễu, cũng không được cử động, nên ta phải trói con lên cây cọc gỗ này để phòng bất trắc. Tôi đặt chân song bàn, lấy vải buộc lại, hai tay kết ấn, thân trên buộc chặt vào cọc gỗ. Sư phụ nói: “Ta đi vào núi sâu tìm thuốc, ba ngày sau sẽ về”, nói xong nhẹ nhàng bay đi. Chỉ còn Lục Nhi ở lại nằm ngủ say bên cạnh.
Cứ cách năm ngày tôi lại phải luyện song bàn thông kinh ba ngày như thế. Lúc đầu không đủ sức duy trì được, sau đó có thể duy trì được, cuối cùng không còn cảm thấy khổ nữa. Ban ngày thì luyện tập ngoại công trạm trang, đến chiều và tối cũng không ngơi nghỉ, lại ngồi đả tọa điều tức, tuy không ngủ nhưng tinh thần lại rất phấn chấn.
Năm thứ hai tôi đã luyện tập thành thục Ngũ Hành quyền, sư phụ lại dạy tôi thương pháp 13 đường.
Năm thứ ba Sư phụ bắt đầu dạy tôi luyện tập kiếm pháp, kiếm pháp này có tên là “Ngự kiếm thuật”, phân thành hai bộ là “Thủ kiếm thuật” và “Thần kiếm thuật”. Thần kiếm thuật tức là dùng thần thông để điều khiển kiếm từ khoảng cách xa diệt trừ yêu quái.
Hàng ngày, ngoài việc dạy ngoại công và điều tức, sư phụ còn giảng pháp lý tu Đạo về vận hành kinh mạch trên thân thể, sự chuyển vận của các ngôi sao, những bí mật về các hành tinh, mối liên hệ giữa thân thể người và tự nhiên, các quan hệ đối ứng giữa chúng; làm thế nào để đồng hóa, thuận theo tự nhiên.
Tám, chín năm sau, tôi luyện ngoại công ngày càng thành thục, pháp lực thần thông cũng dần dần triển hiện.
Một ngày nọ, sư phụ nói: “Con vào núi theo ta tu Đạo đã được gần 10 năm, ngoại công đã bắt đầu có thành tựu, từ hôm nay cần phải trú trọng vào điều tức định lực. Sinh mệnh vạn vật vì Đạo mà sinh, không có Đạo sẽ vong. Nhân pháp địa, trầm trầm bất động, vi địa tiên; nhân pháp thiên, lãng lãng không minh, vi thiên tiên; nhân pháp đạo, nhất thiết tẫn vô, tắc vi thần tiên (Người thuận theo pháp của đất, thâm trầm ổn định, chính là địa tiên, người thuận theo pháp của trời, sáng sủa minh không, chính là thiên tiên, người thuận theo đạo, hết thảy vô vi, thì chính là thần tiên).
Thuận theo định lực tăng trưởng, mỗi lần tôi có thể ngồi đả tọa liền mấy ngày không ăn không uống, thân thể và tinh thần vẫn an định, khỏe khoắn. Một vài năm sau, vào mùa đông, tôi cùng Lục Nhi mang da lông động vật và các loại thảo mộc xuống chợ dưới chân núi để đổi lấy lương thực và dầu. Khi quay về, đi qua một làng ở trên núi, Lục Nhi có biểu hiện bồn chồn khác thường, tôi nghĩ ở làng này chắc chắn có yêu quái. Đi vào làng, tôi được biết gần một năm nay trong làng bị hồ tinh quấy nhiễu, đã có bảy nam thanh niên bị hồ tinh hại chết. Nhớ đạo pháp mà sư phụ dạy phải thay trời hành đạo, diệt trừ tà yêu, duy trì đạo lý của con người, tôi cùng Lục Nhi yên lặng chờ đợi trong núi. Nửa đêm canh ba, từ phía tây nam có một làn yêu khí màu xanh bay vào trong làng, đến trước cửa một ngôi nhà trong làng, làn yêu khí tụ lại thành hình một thiếu phụ, xuyên qua tường đi vào trong nhà. Tôi và Lục Nhi nhanh chóng tiến đến trước cửa và quát lớn: “Yêu nghiệt dám gây họa loạn nhân gian, còn không mau ra chịu chết”. Một lúc sau, nghe thấy tiếng đẩy cửa, một mỹ nhân mặc y phục màu trắng đứng trước cửa, một tay chống nạnh, một tay cầm một cây trùy gỗ, định nói gì đó. Đột nhiên, Lục Nhi gầm lên một tiếng rồi lao lên phía trước, người phụ nữ áo trắng nhìn thấy tình hình bất ổn, quay đầu lập tức hóa thành một làn khí xanh, bỏ chạy về phía tây nam. Tôi rút Tịch Thiên kiếm phóng lên không trung, rồi vận pháp lực điều khiển Tịch Thiên kiếm bay nhanh đuổi theo, tôi nghe thấy trong không trung một tiếng kêu bi thương, lần theo âm thanh, tôi thấy Lục Nhi đang đi quanh con hồ ly lông màu bạc bị thương, liên tục gầm gào. Con hồ ly bị trọng thương chỉ còn thoi thóp. Tôi thu lại Tịch Thiên kiếm, bỏ con hồ ly vào túi, mang về cho sư phụ xử lý.
Sư phụ nhìn nó rồi nói: “Thật tội nghiệp, con yêu hồ ly này đã tu luyện 1300 năm, cũng là linh vật. Chỉ tiếc là không đi theo chính đạo, lại hấp thu tinh huyết của con người, làm hại chết bảy người, gây tội nghiệp”. Sư phụ thở dài, giao cho tôi mang con yêu hồ đã chết này đi chôn phía sau núi. Ngày hôm đó, Lục Nhi hưng phấn lạ thường như được ban cho chức tướng quân vậy, nó lắc đầu vẫy đuôi, đi qua đi lại trước mặt tôi.
Những ngày tháng vô ưu vô lo sống trong núi thấm thoắt lại qua bốn năm nữa. Một hôm, sư phụ gọi tôi vào trong nhà cỏ, thần sắc nghiêm trang nói với tôi: “Đồ nhi, con theo sư phụ tu Đạo đã được 20 năm, đã có một chút thành tựu, đã đến trạng thái bách mạch giai thông. Nếu muốn trường sinh bất tử, tiêu diêu trong vũ trụ thì còn phải đi vân du thế gian, nếm trải đủ mọi nỗi khổ trên thế gian, ma luyện tâm tính, thì mới của thể có thành tựu Đại Đạo”. Tôi hợp thập đáp: “Con xin tuân theo mệnh lệnh của sư phụ”. Sư phụ nói tiếp: “Đi vân du thế gian không thể đi một cách bình thường. Thứ nhất là phải đi xin ăn, không được xin nhiều, mỗi ngày chỉ ăn một bữa; thứ hai là không được thuê nhà trọ, không được ở nhà người thường và đền miếu; thứ ba là thời gian đi vân du là 81 năm. Đồ nhi, con có yêu cầu gì không?” Tôi đáp: “Con không”. Sư phụ nói: “Con về chuẩn bị lên đường đi”. Tôi đáp: “Vâng”.
Thế là tôi bắt đầu 81 năm vân du khổ tu.
Phần thứ hai
Từ biệt ân sư, tôi xuống núi đi vân du. Từ xa xa tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng gầm kéo dài của Lục Nhi, phảng phất nhìn thấy hình ảnh của Lục Nhi lưu luyến lúc chia tay.
Ngày thứ hai đi vân du, tôi vào một thôn sơn. Ngôi làng đổ nát thê lương, những người dân bị thổ phỉ cướp hết sạch của cải trong cảnh chiến tranh loạn lạc, xác chết đầy đường. Con người nơi nhân thế làm nhiều việc ác, nghiệp lực luân báo không bao giờ kết thúc. Điều này càng khiến tôi thêm kiên định tu Đạo. Không có gì ăn, tôi đành phải vào rừng tìm quả dại và rau dại ăn tạm. Ăn xong, tôi tìm một nơi kín gió ngồi đả tọa nhập định. Ngày hôm sau, trời đổ mưa, gió lạnh thấu xương, quần áo tôi ướt hết, tôi vẫn bất động, ba ngày sau tôi xuất định tiếp tục lên đường. Thời tiết dần dần trở nên mát mẻ, thu qua đông tới, những ngày mùa đông ở phương bắc lạnh lẽo khác thường, nước đóng thành băng. Từ sáng đến tối, gió tuyết ngày càng mạnh hơn, tôi nhìn xung quanh mờ mịt, không một bóng người, tôi ngồi trong tuyết tu luyện thiền định. Quần áo mỏng manh, phải chịu đựng đói rét. Tôi vận công điều hòa mạch lạc vài lần, rồi tiến nhập vào trạng thái nhập định thâm sâu, trong thân có đạo pháp, cái lạnh không thể cản trở nổi tôi. Mười mấy ngày sau tôi xuất định. Sau nhiều ngày bão tuyết, tuyết đã cao đến ngực tôi, chỉ có đầu ở trên mặt tuyết, sau này may mắn được người có duyên tặng cho cái áo bông, chịu khổ cực đợi đến mùa xuân. Lời ân sư dạy bảo luôn khắc ghi trong tâm tôi, tôi chưa bao giờ gián đoạn việc tập luyện công pháp, ngày qua ngày tiến bộ không ngừng.
Chớp mắt 20 năm vân du nơi nhân thế qua đi như cơn gió thổi. Tôi đi vân du tới cao nguyên Quý Châu, tại đây tôi gặp những người nước ngoài, xin ăn không được bao nhiêu lại còn chịu nhiều lời nhục mạ. Tôi tự nhủ trong tâm rằng: “Ta là người tu Đạo, một nửa là thần, không thể giống như người phàm tục được, nếu ta tranh cãi với họ thì chẳng khác chi người phàm tục, đạo pháp sẽ mất hết”. Nghĩ vậy tôi không để tâm đến họ nữa.
Đến tam phục (thời kì nóng nhất trong năm), tôi ở trong rừng trúc hóng mát. Một cô gái người nước ngoài đi qua mỉm cười hỏi thăm tôi, tôi đứng dậy hành lễ. Trước khi đi, tôi tìm một nơi yên tĩnh, luyện một lượt Ngũ Hành quyền và kiếm pháp, ngồi đả tọa điều tức đến chiều tối, rồi đi vào trong làng xin ăn. Nhìn thấy một ngôi lầu trúc, tôi đến gõ cửa, vừa hay là cô gái người nước ngoài gặp buổi sáng. Nhận ra tôi, cô ấy cho tôi rất nhiều đồ ăn, còn giới thiệu tôi với lão phu nhân và rất nhiều người. Sau khi ăn xong tôi lập tức rời đi, trở lại rừng trúc đả tọa nhập định tu luyện. Buổi trưa hôm sau, cô gái người nước ngoài đến trước mặt tôi, dùng hán ngữ nói với tôi: “Tôi là giáo chủ Thần Nữ giáo, anh có thể ở lại bản giáo làm rể không? Giáo chúng của Thần Nữ giáo của tôi cũng nguyện cung phụng tiên nhân”. Nghe cô gái nói những lời ấy, tôi lập tức nói: “Tôi là người tu đạo khổ tu, phải giới sắc, cảm ơn ý tốt của giáo chủ”. Giáo chủ Thần Nữ vẫn không đi, kiên trì ở lại thuyết phục, tôi không nói gì và cũng không cử động, đột nhiên cô ấy lấy từ trong túi ra một nắm thuốc bột ném lên không trung, tôi vội nín thở, ra tay điểm huyệt vào lưng cô ấy, tôi đứng dậy mang cô ấy về lầu trúc, hành lễ rồi rời đi.
Vì chiến tranh loạn lạc khắp nơi nên thiếu rất nhiều con trai để kế tục hương hỏa, nên tình huống này cũng hay xảy ra.
Người tu luyện phải giữ nghiêm giới luật, bài trừ sắc tâm. Nếu ở lại nhân gian sống cuộc sống của con người thì chính là người thường trong nhân gian, khí huyết khô kiệt thì phải chết, phải luân hồi trong tam giới, ở trong biển khổ vô tận, không thể giải thoát bản thân.
Hoa nở hoa tàn, năm này qua năm khác, mọi thứ đều hóa thành tro bụi. Đạo pháp của tôi ngày một tinh thâm, đã hiểu thấu nhân duyên của vạn sự trên thế gian. Một lần nhập định thâm sâu có thể nhập định vài năm, vài năm ngồi bất động như núi. Thời gian trôi qua như chớp, đông qua hè tới, vân du thế gian đã bình yên qua 20 năm.
Một hôm, tôi đi vân du đến vùng duyên hải Triết Giang. Vùng đất này sản vật phong phú, dân chúng an cư lạc nghiệp, ít xảy ra chiến tranh loạn lạc, trong chợ người người mua bán tấp nập. Tôi nghe thấy tiếng một người phụ nữ kêu khóc. Mọi người bàn tán: “Con của chị ta chơi trên bãi biển, đột nhiên bị một cơn sóng lớn cuốn đi, chị ta vì mong mỏi nhớ con mà trở nên điên điên rồ rồ như vậy”. Người ta lại nói: “Ở bờ biển dạo này có nhiều trẻ con bị bắt cóc, không biết vì sao”. Nghe mọi người nói, tôi nhìn về phía biển, vận dụng pháp nhãn thông trông thấy khí đen đầy trời, thấy một con giao long (là loài lai giữa hải long và giao long ở sông) chuyên ăn thịt trẻ con. Vào lúc nửa đêm, tôi đến bờ biển, dùng thần thông bắt con giao long ra khỏi mặt nước. Con giao long phủ phục dưới mặt đất, tôi hỏi nó: “Tại sao ngươi lại bắt trẻ con ăn thịt? Gây tội họa loạn nhân thế tất sẽ bị trời phạt!” Con giao long khẽ đáp: “Chân nhân có thể không biết đó, ngư dân vùng này gây tổn hại nghiêm trọng cho thủy tộc của tôi, lần này tôi đến đây chính là để đòi nợ”. “Nhân quả có quy luật, thiên lý rõ ràng, ngươi cũng không nên làm như thế. Nếu bắt trẻ con như thế, tất sẽ bị trừng phạt”. Giao long trả lời: “Tôi sẽ làm theo chỉ dạy của chân nhân”. Giao long chầm chậm lặn xuống nước. Ba ngày sau, nó hóa thành một đạo sĩ đi tới bờ sông, nói dối mọi người rằng: “Ba năm hạn hán ở đây là do ngư dân vùng này đã giết hại rất nhiều thủy tộc nên bị trời trách phạt. Phải cúng một đôi đồng nam đồng nữ cho Long vương thì mới có thể thoát tội”…
Tôi tu luyện thiền định trong núi, nhìn thấy con giao long  tính ác không hối cải, liền cầm Tịch Thiên kiếm định truy sát nó. Nhưng nhớ tới lời ân sư từng nói: “Yêu tà gây họa loạn nhân thế thì phải giết. Nhưng đối với long tộc thì khác, phải giao cho Thiên đình xử lý, vì đa phần chúng được Thần bảo hộ”. Tôi bèn dùng pháp lực bắt lấy nó, giao cho thiên thần trên Thiên đình thẩm tra xử lý. Nhờ vậy mà Thiên đình biết rõ căn nguyên và cử thiên nhân hỗ trợ.
Vài chục năm sau, tôi vẫn chuyên cần tu Đạo, Đạo pháp phát triển không ngừng. Có người ở Sắc Giới Thiên đến cầu pháp, tôi đã giảng Đạo pháp cho chúng tiên ở Sắc Giới Thiên một thời gian. Lại có rất nhiều thiên nhân đến cầu pháp, đáp ứng không xuể. Chúng tiên có ý muốn tôi lưu lại ở Thiên cung cùng chúng tiên hưởng thiên phúc. Tôi nghĩ trong tâm rằng Sắc Giới Thiên vẫn ở trong tam giới, vẫn phải nhập lục đạo luân hồi, không phải là vĩnh cửu, chỉ là tạm hưởng thiên phúc, khi thiên phúc hưởng hết thì vẫn phải xuống địa ngục, cũng không thể vĩnh viễn bất tử, vẫn nên rời đi. Tôi từ biệt chúng tiên trở về nhân thế, tiếp tục đi vân du khổ tu. Năm này qua năm khác, thời gian như thoi đưa, tính ra đi vân du cũng đã nhiều năm, cũng sắp đến thời hạn mà ân sư định ra rồi. Tôi lại đi vân du đến Hoa Sơn, tìm một động tiên để nhập định thâm sâu. Trong định, thân và tâm của tôi đều biến mất, tất cả mọi thứ hữu hình, vô hình trên thế giới đều biến thành hỗn độn, chỉ còn là hỗn độn vô tận.
Mấy năm sau, đã đến thời hạn, tôi xuất định chuẩn bị trở về theo ý lệnh của sư phụ. Bỗng nhiên nghe thấy ngoài động có tiếng của sư phụ: “Đồ nhi, sư phụ đến rồi”. Tôi vội ra ngoài động hành lễ với sư phụ. Sư phụ nói: “Đồ nhi, con đã vất vả rồi. Vô Cực pháp môn của chúng ta là tu luyện Đại Đạo. Tổ sư di huấn rằng: thế gian mỗi 800 năm mới xuất hiện một người đại đức có thể truyền thừa pháp môn đạo pháp của ta, cần phải khổ tu trăm năm mới có thể thành đạo. Tương lai, đệ tử của con 800 năm sau sẽ giáng sinh ở Hoa Sơn, hãy nhớ kỹ! Thời hạn ta định đã đến”. Nói xong sư phụ đơn thủ lập chưởng hành lễ với tôi nói: “Chúc mừng chân nhân thành đạo”. Trong nháy mắt, tôi cảm giác mình biết được mọi điều về quá khứ và tương lai, lên trời xuống đất không nơi nào không thể đi… Đây thực sự là đắc đạo rồi. Tôi thấy trên không trung mây trắng bồng bềnh, hương thơm lan tỏa khắp nơi, những cảnh tượng kỳ diệu chốn thần tiên hiện rõ ràng trước mắt. Có câu thơ rằng:
Chứng quả thánh nhân
Khán thế gian phong khởi vân dũng, tuế nguyệt thương tang,
Ngộ thiên cơ thần hành tự tại, vạn cổ trường tồn.
Tạm dịch:
Nhìn thế gian gió mưa vần vũ, trải qua năm tháng tang thương
Ngộ ra thiên cơ, tự tại trên con đường thành Thần, vạn cổ trường tồn.

Nhìn thấy trong định: Bộ luật âm phủ – Địa ngục du ký (Phần 1)



Tác giả: Cổ Đạo
[ChanhKien.org] Đảng cộng sản là một âm hồn đến từ phương Tây, nó tuyên truyền đấu với trời, đấu với đất, đấu với người, đấu với mọi vật, trong cuộc Đại cách mạng văn hóa, nó đã phá hủy tất cả văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, chùa chiền, miếu mạo. Nó còn lợi dụng giáo dục để truyền bá lý luận, tư tưởng thuyết vô thần, tôn sùng vật chất, khoa học, chú trọng những thứ hữu hình, kêu gọi người dân phải tin vào đảng, coi đảng như mẹ, đảng là quan trọng nhất, mọi thứ khác đều xếp sau đảng. Nó khiến con người sùng bái cuộc sống vật chất, dần dần xa rời nhận thức về Thần, từ đó khiến cho tư tưởng của con người bị phong bế, bị đảng cộng sản dễ dàng tẩy não.
Tập đoàn Giang Trạch Dân đã lợi dụng quyền lực độc tài chuyên chính của đảng cộng sản để bịa đặt, bôi nhọ Pháp Luân Đại Pháp. Rất nhiều người đã tin theo chúng mà không lắng nghe những lời giảng chân tướng của người tu luyện Đại Pháp, thậm chí còn nghe theo lời dối trá mà bức hại chết vô số người tu luyện Pháp Luân Công.
Trong lịch sử đã có quá nhiều bài học giáo huấn về bức hại người tu luyện Chính Pháp. Năm 300 trước công nguyên các tín đồ Cơ Đốc giáo đã bị Đế quốc La Mã bức hại và tàn sát. Ngày nay, bằng chứng rõ ràng là đảng cộng sản Trung Quốc và Giang Trạch Dân đang bức hại Pháp Luân Đại Pháp – một môn tu luyện Chính Pháp của Phật gia.
Trong quá trình tu luyện, một lần khi luyện bài công pháp thứ hai của Pháp Luân Đại Pháp, chỉ trong thời gian năm phút nhập định ngắn ngủi, tôi đã đi thăm Thập điện âm phủ và 16 vạn tầng địa ngục. Những gì tôi nhìn thấy đều là những điều trong tầng thứ sở tại của tôi, chia sẻ với mọi người hy vọng có thể cảnh tỉnh con người thế gian, nhắc nhở con người nên làm điều thiện, đừng làm điều ác, hiểu rõ chân tướng, tất sẽ được phúc báo.
Thập điện âm phủ gồm: 16 vạn tầng địa ngục, Tam thành, Ngũ Nhạc cung, Bát Quỉ Đại Vương phủ, Thập tầng Thẩm Phán điện, Thông Thiên Pháp Vương điện.
Từ xưa đến nay, mọi người đều nghe nói về Thập điện âm phủ và 18 tầng địa ngục, đây là thế giới mà con người sẽ phải tới sau khi chết, ngoại trừ người tu luyện có thành tựu trong quá trình viên mãn sẽ được các Giác Giả trong thế giới Chính Pháp môn đó đến đón đi, còn lại đều phải xuống Thập điện âm phủ chờ xét xử. Cảnh tượng 18 tầng địa ngục mà tôi nhìn thấy trong lần nhập định này không phải là 18 tầng địa ngục mà thuở nhỏ chúng ta được nghe kể, mà là 162.732 tầng, đây là con số mà tôi nhìn thấy trong lúc nhập định.
Trong định, tôi thấy mình ngồi trên một con voi lớn màu vàng, trên mình voi phủ áo giáp vàng, có treo chùm châu báu màu vàng lấp lánh, trông rất uy nghiêm, đi bên cạnh có mười vị Diêm Vương cưỡi trên những thần thú màu vàng đầu giống đầu hổ, thân giống thân tê giác. Một vị Diêm Vương trong đó nói: “Khoảng từ năm 1999 ở nhân gian, địa ngục được phân thành rất nhiều tầng, lúc đó Thông Thiên Pháp Vương Điện đã kiến tạo lại địa ngục theo Thiên lệnh truyền xuống âm phủ”.
Trên đường đi, tôi đã xem hết hơn 16 vạn tầng địa ngục, quỷ chịu cực hình trong đó đa số là những kẻ ác, tay chân của tà linh cộng sản, loạn thần và cả những người chưa làm tam thoái, chúng đã tham gia bức hại, bịa đặt, bôi nhọ, mổ cướp nội tạng của người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp tại nhân gian. Lúc chúng bị hành hình, cảnh tượng máu me vô cùng đáng sợ, chúng thực sự rất hối hận, nét mặt lộ rõ vẻ đau khổ và cầu cứu. Tôi hỏi mười vị Diêm Vương bên cạnh có cách nào giúp họ giải thoát khỏi sự thống khổ ở địa ngục không? Diêm Vương nói: “Mấy chục năm cuộc sống ngắn ngủi nơi nhân gian, Phật Chủ với hồng ân hạo đãng đã truyền Đại Pháp cho thế nhân, ai cũng có cơ hội, người nhận rõ chân tướng và làm tam thoái tất sẽ có tương lai hạnh phúc. Nhưng những quỷ ở địa ngục này hầu hết là những kẻ bức hại Đại Pháp nên rất khó giúp họ thoát khỏi sự đau khổ ở địa ngục”.
Sau khi nghe những lời đó, tôi trở lại trạng thái bình thường, tiến vào một con đường ngập tràn ánh sáng trắng, lúc này, giọng nói của Diêm Vương văng vẳng bên tai: “Hãy truyền những lời này cho nhân gian, cảnh tỉnh thế nhân, người có thể hiểu được những lời này tất có thể trong họa mà đắc phúc”.
Bộ luật âm phủ viết:
Hồng trần cổn cổn thị phi tình
U u hoàng tuyền lục xích kính
Nhân sinh họa phúc tự tác lai
Âm dương bộ thượng vô lậu kính
Vấn thiên vấn địa vấn vô tri
Mạt thế vạn pháp giai thành không
Tác thiện tác ác tự hữu báo
Chuyển Luân Thánh Vương thiên luật định
Ngũ thiên tuế nguyệt bất kiến lân
Danh tình công quá thị yên vân
Bách gia Thần thần đắc thân ý
Kỳ Thần tầm lai vũ trung vận
Xướng văn chân tướng phục trung minh
Vật thương Đại Pháp nhân trung thân
Lai nhật công quá thanh sử kiến
Ám kiếp chuyển cơ chính phân phân
Chú giải:
  1. Hồng trần cổn cổn thị phi tình: chỉ thế gian tràn đầy nghiệp lực đen đúa như sóng cuồn cuộn, thị phi, đúng sai đều là tình.
  2. U u hoàng tuyền lục xích kính: chỉ hoàng tuyền (suối vàng) nơi âm phủ, “ lục xích kính” là đơn vị đo khắc trên thước Lỗ Ban chỉ sự tử biệt, cũng là độ rộng của con đường hoàng tuyền.
  3. Nhân sinh họa phúc tự tác lai: nghĩa là tự làm tự chịu.
  4. Âm dương bộ thượng vô lậu kính: Âm dương bộ chỉ hai quyển âm và quyển dương, ghi chép mọi việc trong quá khứ, hiện tại và tương lai, toàn bộ số mệnh của con người đều được ghi chép trong quyển âm dương thượng. “Vô lậu kính”: chỉ hết thảy những việc thiện, ác đã làm khi còn sống đều ở trong đó, không việc nào bỏ sót.
  5. Vấn Thiên vấn Địa vấn vô tri: Tam giới chính là cõi mê, tất cả sinh mệnh rớt xuống đây dù thiện hay ác đều sống trong vô tri.
  6. Mạt thế vạn pháp giai thành không: Đến thời mạt kiếp thì tất thảy các Pháp đều không còn linh nghiệm nữa.
  7. Chuyển Luân Thánh Vương thiên luật định: Vào thời mạt thế, vạn cổ cơ duyên, Chuyển Luân Thánh Vương sẽ mang “Chuyển Pháp Luân” để chuyển động thiên luật, định ra Pháp mới, Đại Pháp sẽ hồng truyền, mọi người đều có cơ hội được nghe Đại Pháp.
  8. Bách gia Thần thần đắc thân ý: Đất nước Trung Quốc cổ xưa được gọi là Thần Châu, “bách gia” nghĩa là “trăm họ”, ý là chúng Thần trên thiên thượng theo Phật Chủ xuống Thần Châu để đắc thân người.
  9. Kỳ Thần tầm lai vũ trung vận: Sự từ bi của Thần và chân tướng, sẽ đánh thức thế nhân qua các vũ điệu “Thần Vận”, cho con người thêm một cơ hội lựa chọn quay trở về thiên thượng.
  10. Vật thương Đại Pháp nhân trung thân: Chớ làm tổn hại, bôi nhọ những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp đang cứu người. Họ là “Thần” đang mang thân người thường.
  11. Ám kiếp chuyển cơ chính phân phân: Thời mạt kiếp mọi pháp đều không linh, Chuyển Luân Thánh Vương xoay chuyển Pháp Luân, chính Thiên, chính Địa, Chính Tam tài, truyền Pháp độ nhân cứu chúng sinh.
Tôi viết ra những điều nhìn thấy trong tầng sở tại của mình để thức tỉnh người đời còn nghe theo ác đảng Trung cộng mà bôi nhọ, bức hại người tu luyện Đại Pháp, cũng để nhắc nhở bản thân nên làm tốt những gì cần làm, không được lười nhác, an dật tìm lý do buông lơi tu luyện. Mong các đồng tu từ bi chỉ ra những điều chưa phù hợp.
Xem tiếp Phần 2