Trang

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Điều tiểu đệ tử Phương Tây nhìn thấy trong 3 lần định


Điều tiểu đệ tử Tây phương nhìn thấy trong ba lần định

Tác giả: Tiểu đệ tử người da trắng ở Châu Âu kể lại, đệ tử Đại Pháp Cao Phi phiên dịch

[Chanhkien.org] Con trai tôi gần 9 tuổi, cháu đắc Pháp từ hồi lên 5, nhưng cháu không thể học Pháp và luyện công nhiều do phần lớn thời gian ở cùng với mẹ (chúng tôi đã ly thân), vì mẹ cháu không phải là học viên. Gần đây, cháu ở nhà cùng chúng tôi và trong ba lần định, cháu đã trải nghiệm rất nhiều điều. Tôi xin viết ra một vài trải nghiệm của cháu. Dưới đây là những gì cháu kể lại với tôi, có thể không đúng 100% với lời gốc của cháu.
Trong lần nhập định đầu tiên, con thấy hai không gian khác nhau đồng thời với biểu hiện của hai ngôi nhà màu đỏ (nơi chúng con sống) ở cả hai không gian. Hai ngôi nhà đỏ liên tục thăng lên trong lần nhập định của con, và đến cuối lần nhập định thì cả hai ngôi nhà đã thăng lên ba tầng thứ so với tầng thứ gốc của chúng. Trong khi nhập định, con thấy Sư phụ và Pháp tượng của Ngài treo trong phòng khách đi ra đi vào hai ngôi nhà. Sư phụ phải đi ra và thu thập các sinh mệnh cần cứu độ ở mỗi tầng thứ khi chúng ta thăng tiến trong tu luyện.
Mặc dù ngày càng khó khăn hơn cho Sư phụ để tìm các sinh mệnh có thể cứu được, Sư phụ vẫn dốc toàn lực tìm kiếm và cứu độ các sinh mệnh ở mỗi tầng thứ. Nhiều người ngày càng quan tâm ít hơn đến Pháp Luân Công khi mà tiêu chuẩn đạo đức của họ không ngừng trượt dốc, và do đó thân thể bề mặt của họ ngày càng khó thức tỉnh khi chúng ta giảng chân tướng cho họ. Ở giai đoạn này, rất khó cho Sư phụ tìm thấy người tốt và cứu họ lên thiên quốc của chúng ta, vì vậy chúng ta phải cố gắng hết sức để giúp Sư phụ cứu thêm nhiều chúng sinh.
Trong lần nhập định thứ hai, con gần như chỉ nhìn thấy các màu sắc. Con có thể thấy con đang thăng lên ba bậc trên chiếc thang lên thiên đường. Ngày hôm sau, con không thể thiền định được, và đêm hôm đó con đã thức giấc với cơn co thắt dạ dày. Con cố gắng nghĩ rằng nó không đau và cơn đau này là tốt cho con. Cuối cùng cơn đau bớt dần và con có thể đi ngủ trở lại. Sáng hôm sau, con biết rằng nó xảy ra là vì con phải trả nghiệp ở mỗi tầng thứ khác nhau trên nấc thang lên thiên đường.
Trong lần nhập định thứ ba, con đi vào một không gian, nơi con có thể thấy các không gian khác nhau của vũ trụ ở tầng thứ hữu hạn của con. Sư phụ đang ở đó, hiển hiện là một Đại Phật với địa cầu bé tí tẹo ở ngay trước trán Ngài. Con cảm thấy rất vui khi Sư phụ chào con trong thế đơn thủ lập chưởng, và con hành lễ “hợp thập” trước Sư phụ. Sư phụ đọc sách Chuyển Pháp Luân cho con nghe. Con cố gắng ngồi song bàn hoa sen khi nghe Pháp của Sư phụ.
Trong các không gian khác, con nhìn thấy nhiều đệ tử Đại Pháp và một số chính Thần như Phật Thích Ca Mâu Ni, Đại Tiếu Phật (do Bố Đại hòa thượng tu thành), Chúa Jesus và Odin (Thần trong thần thoại Bắc Âu), v.v. Con rất ngạc nhiên khi Phật Thích Ca Mâu Ni tới chỗ con và chào con bằng một nụ cười.
Các chính Thần này to lớn hơn các đệ tử Đại Pháp, tuy nhiên họ vẫn thuộc về cựu vũ trụ. Con nhỏ hơn rất nhiều so với ngón chân út của Sư phụ ở không gian khác, nhưng Sư phụ vẫn có thể giao tiếp với con, và con cảm nhận được nhiều điều trong tâm mình.
Có một trận đại chiến chính-tà trong vũ trụ và con có thể thấy các ma tà ác đang cố gắng xâm nhập vào “không gian Đại Pháp”, nơi Sư phụ giảng Pháp cho các đệ tử Đại Pháp. Chỉ khi ai đó ở trong không gian này, người đó mới có thể nghe Sư phụ giảng Pháp. Ma quỷ tà ác cố gắng lấy trộm cuốn sách Chuyển Pháp Luân từ các đệ tử Đại Pháp. Mỗi lần chúng cố gắng lọt vào “không gian Đại Pháp”, Sư phụ đều tiêu trừ chúng. Điều các đệ tử Đại Pháp trân quý nhất chính là cuốn sách Chuyển Pháp Luân, đây là cuốn sách căn bản giúp người tu luyện đề cao. Có đủ loại học viên Đại Pháp, và con có thể thấy bất cứ ai từng đọc và hiểu trong tâm họ một vài trang của Chuyển Pháp Luân đều đã bước vào trường không gian của Đại Pháp và được tính là một học viên Đại Pháp. Lấy ví dụ, ông con đã gần 70 tuổi mới chỉ đọc một phần Bài giảng thứ nhất trong Chuyển Pháp Luân, nhưng ông đã hình thành một chiếc lồng bảo hộ nhỏ bảo vệ người tu luyện, và được tính là một học viên Đại Pháp. Trường đức của ông cũng đã tăng trưởng vào năm ngoái.
Con có thể nhìn thấy nhiều học viên Đại Pháp, đệ tử Đại Pháp và tầng thứ của họ. Con thấy trong định rằng con đang ở tại tầng 62 của chiếc thang lên thiên đường; con mặc áo giáp bọc đồng ở một không gian, áo giáp đồng của con trông như áo giáp của những chiến binh bằng đất nung thời cổ đại. Tầng của con thấp là do con học Pháp không đủ và luyện công cũng không nhiều. Con không thể thấy con có bao nhiêu đức và nghiệp. Có nhiều học viên Đại Pháp với áo giáo vàng và bạc, và đệ tử Đại Pháp tầng cao nhất mà con thấy được đã leo lên tầng 115 của chiếc thang lên thiên đường. Các học viên nam nữ có những áo giáp khác nhau và càng lên cao, họ trở nên càng đẹp.
Ở tầng thứ cực cao, những thanh kiếm mà đệ tử Đại Pháp dùng để đánh nhau với tà ác là rất to và nặng, nhưng họ vẫn có thể cầm chúng như thể chúng rất nhẹ. Do tầng thứ thấp, thanh kiếm của con giống kích cỡ một con dao hơn, và nó không thật hiệu quả khi con dùng nó để đối đầu với tà ác. Các học viên Đại Pháp có nhiều loại vũ khí khác nhau, có những cái rất đặc biệt, nhưng nhiều đệ tử Đại Pháp dùng võ thuật để đánh lại tà ác. Các học viên nam có xu hướng dùng võ thuật chiến đấu với tà ác, trong khi một số học viên nữ dùng các vũ khí đặc biệt của họ.
Con có thể thấy cha con và sự tiến triển của ông kể từ lần cuối con gặp ông, khoảng 1 năm trước. Lần này ông đang đứng ở tầng thứ 78 của chiếc thang lên thiên đường và một nửa nghiệp lực trên thân thể ông đã được trả hết kể từ lần cuối con nhìn thấy ông. Ông đã thăng được 4-5 bậc trên chiếc thang lên trời kể từ năm ngoái. Áo giáp trên mình ông đã chuyển từ bạc sang nửa bạc nửa vàng khi một nửa nghiệp lực trên thân thể ông đã được trả xong, và Pháp Luân không ngừng tăng trưởng của ông đang xoay chuyển bên phải ông, nơi áo giáp vàng hình thành. Ông có hình tượng là một chú sư tử trời với đôi cánh đại bàng ở một số không gian, và sư tử đã tiêu diệt nhiều sinh mệnh tà ác.
Em họ thứ hai của con gần 10 tuổi và đã hình thành một số thói quen xấu, cô bé luôn tranh luận với mẹ. Cha con muốn con giúp cô bé, để cô bé có thể biết về tu luyện Đại Pháp, các quan niệm truyền thống và cách hành xử như một cô gái truyền thống. Cô bé tới chỗ chúng con, tiếp thu rất nhanh, và đã thấy nhiều cảnh tượng mỹ diệu ở các không gian khác. Con có thể thấy rằng cô bé đã leo lên tầng thứ 70, và cô bé đang rất thích học Pháp luyện công. Sau một vài lần luyện tĩnh công, cô bé đã có thể xếp chéo hai chân ngồi tư thế song bàn mà không cần dùng đến tay.
Con tin rằng ba người chúng con đến từ thể hệ của Đạo gia, cũng như một số học viên khác ở nhóm học Pháp địa phương chỗ chúng con, theo như con thấy thì họ cũng đến từ thể hệ Đạo gia. Cuối cùng con có thể thấy tầng thứ tu luyện của con đề cao, rồi con bay lên, và đi vào kiếp sống tiếp theo của con. Con có thể thấy lá cờ của vùng nơi con sẽ chuyển sinh trong kiếp sống kế tiếp. Để có thể cứu độ chúng sinh của mình và viên mãn trong tu luyện, các học viên Đại Pháp phải tu đạt đến mức độ thân thể có áo giáp vàng ở không gian khác. Chỉ khi áo giáp có một lượng vàng nhất định, Pháp Luân mới có thể đột phá lớp vỏ bề mặt của áo giáp trong không gian khác và có thể nhìn thấy được từ bên ngoài, khi ấy Pháp Luân xoay chuyển xuôi ngược trong áo giáp vàng.
Mỗi học viên Đại Pháp là thật đặc biệt và một số họ đã phát triển nhiều lớp hoa sen, con nhìn thấy một vị đã tích được hơn 15 lớp hoa sen. Một số đệ tử Đại Pháp có những chiếc khiên bảo vệ lớn, chứa trong đó tất cả chúng sinh mà họ đã cứu, các chúng sinh được cứu có thể nhìn thấy trong khiên bảo hộ của mỗi học viên. Kích cỡ của khiên bảo hộ là có liên quan tới tầng thứ tu luyện. Tất cả học viên Đại Pháp đều có công năng và thần thông. Tất cả những gì họ có đều được Sư phụ từ bi vĩ đại ban cho.
Đối với một bộ phận học viên Đại Pháp, đã là quá muộn để họ bù đắp lại các lỗi lầm. Hai lý do chính đó là họ đã không học Pháp đủ và/hoặc làm những điều ngu xuẩn. Họ không thể có một đời sống tiếp theo và tình cảnh của họ là cực kỳ bi thảm.
Đây chỉ là một vài hiểu biết hạn chế ở tầng thứ tu luyện hiện tại của con. Rất mong nhận được sự góp ý từ bi cho những gì không phù hợp.
Dịch từ:
http://chanhkien.org/2013/08/dieu-tieu-de-tu-tay-phuong-nhin-thay-trong-ba-lan-dinh.html

Diệt trừ tâm sắc dục


Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm sắc dục
Tác giả: Thiện Dũng



[Chanhkien.org] Lời nói đầu: Gần đây nhìn thấy hai bài chia sẻ của đồng tu về loại bỏ tình cảm nam nữ, tôi có cảm nghĩ, viết ra giao lưu cùng các đồng tu, có chỗ thiếu sót mong quý đồng tu từ bi chỉ rõ.
Có thể loại bỏ tình cảm nam nữ hay không là quan đầu tiên từ người thường hướng về người tu luyện chân chính. Loại bỏ tình cảm nam nữ ra sao, đối với mỗi người tu luyện có trạng thái khác nhau, cảm ngộ khác nhau của các tầng thứ khác nhau. Tôi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp từ năm 1994, khi ấy là sinh viên đại học. Hồi đầu mới đắc Pháp tư tưởng thường có tình cảm nam nữ phản ánh ra, can nhiễu tôi tinh tấn tu luyện, tuy nhiên trong tư tưởng tôi kịch liệt bài xích nó, nghĩ rằng nó không phải tôi, nhưng hiệu quả không tốt lắm, khiến tôi rất khổ não. Thông qua học Pháp, tôi đã có nhận thức minh xác rõ ràng khi đối đãi vấn đề này. Đọc kinh sách «Pháp Luân Đại Pháp nghĩa giải» trong đó viết: “Bởi vậy niệm sách của tôi thì có thể tiêu nó, khi niệm sách đả xuất ra đều là công, đả xuất ra đều là Pháp, liền có thể khởi tác dụng tiêu nghiệp” (bản dịch chưa chính thức). Trong tâm tôi sáng tỏ thông suốt, bỗng nhiên ngộ được cách tống khứ tâm sắc dục và vật chất xấu của tất cả các tâm chấp trước, đó là niệm Pháp. Niệm Pháp! Khi học tập giảng Pháp của Sư tôn, lại có tâm sắc dục phản ánh ra, tôi bèn học thuộc đoạn giảng Pháp trong bài giảng thứ sáu «Chuyển Pháp Luân»: “‘Dục’ và ‘sắc’ những thứ ấy đều thuộc về tâm chấp trước của con người; những thứ ấy đều nên tống khứ.” Liên tục niệm 81 lần, nếu tư tưởng còn có tạp niệm chấp trước sắc dục, lại niệm 81 lần nữa, mãi cho đến khi tâm tĩnh như nước.
Qua học Pháp, tôi phát hiện đối với mỗi tâm chấp trước của con người, trong giảng Pháp Sư tôn đều giảng vì sao phải bỏ tâm chấp trước, loại bỏ tâm chấp trước ra sao, chỉ cần nghiêm túc học Pháp đều có thể nhận thức được. Khi đả tọa niệm Pháp, tôi nhìn thấy tâm chấp trước sắc dục đối ứng ở không gian khác chính là một vật chất to lớn như bạch huyết của động vật hay khối u ung thư vậy. Thuận theo tôi không ngừng niệm Pháp, loại vật chất xấu xí này không ngừng thu nhỏ, không ngừng thu nhỏ, tới khi giải thể hóa thành nước đen, cuối cùng nước đen cũng bị Đại Pháp tịnh hóa tiêu trừ đi. Biểu hiện trong không gian người thường, tư tưởng đột nhiên trở nên bình tĩnh, hòa ái vô cùng, thân thể cũng cảm giác phi thường nhẹ nhõm. Trong thực tiễn tu luyện, trên cơ sở học Pháp lượng lớn và hướng nội tìm, mỗi ngày tăng thời gian bão luân, kéo dài thời gian đả tọa, số lần đả tọa đều có thể khởi tác dụng phụ trợ loại bỏ các chủng tâm chấp trước.
Do nguyên nhân công tác, tại xã hội và hoàn cảnh sinh hoạt, tôi tiếp xúc rất nhiều đồng nghiệp nữ. Trong đó có một cô tên là Phi Phi công tác cùng tôi ở bên ngoài, tiếp xúc khá nhiều, lại đều xa quê, độc thân bên ngoài, chịu ô nhiễm của nếp sống đạo đức bại hoại ngoài xã hội, cô vẫn luôn hy vọng cùng tôi phát triển quan hệ “sống chung”. Thông qua học Pháp tôi ngộ rằng hành vi giới tính ngoài vợ chồng là đi ngược lại tiêu chuẩn quy phạm đạo đức mà Thần cấp cho con người, người thường sau khi nam nữ loạn tính tạo nghiệp ở thế gian xong phải xuống địa ngục để hoàn trả tội nghiệp, người tu luyện càng không nên có hành vi này. Đại sự hôn nhân, đối với đệ tử chân tu thì đều được Sư tôn an bài tốt cả, hết thảy tùy kỳ tự nhiên. Không lâu sau khi xếp đặt cho chính quan hệ với Phi Phi, Phi Phi rời công ty về quê công tác.
Sau năm 1999, đệ tử Đại Pháp toàn diện chuyển sang tu luyện Chính Pháp. Đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp gánh vác sứ mệnh lịch sử vĩ đại là chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh. Trong «Giảng Pháp luân lưu tại Bắc Mỹ» Sư tôn giảng: “Bởi vì các thiên thể to lớn ấy là ở dưới chư vị, hầu như giống với thân thể của chư vị, bởi vì chư vị cũng to lớn như thế. Bên trong đó có vô số chúng sinh, có số lượng bất tận những khung thể vũ trụ; sự tu luyện của chư vị, là quyết định sự tốt hay xấu, lưu hay bỏ của các quần [thể] sinh mệnh to lớn ấy!” Thông qua học Pháp tôi ngộ được rằng: Tu luyện Chính Pháp là lấy tu luyện cá nhân làm tiền đề, đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp tu tốt bản thân, loại bỏ tâm chấp trước của bản thân cũng là cứu độ vô lượng chúng sinh. Trong tu luyện Chính Pháp, do coi nhẹ tâm chấp trước con người, đặc biệt tình cảm nam nữ, có hai lần đối diện bức hại của cảnh sát do sinh mệnh tà ác thao túng, tôi vẫn thản nhiên bất động, dưới coi sóc từ bi của Sư tôn dùng chính niệm và trí huệ phá trừ can nhiễu, khiến bức hại tà ác tan thành tro bụi. Đệ tử Chính Pháp chỉ có diệt trừ tâm chấp trước sắc dục, trong chính niệm mới có thể vận dụng như ý công năng mà Đại Pháp ban cho, chứng thực Đại Pháp, phá trừ bức hại của nhân tố cựu thế lực sót lại. Cũng có đồng tu vì tạo nghiệp tình cảm nam nữ, bị tà ác dùi vào sơ hở tạo thành tổn thất rất lớn cho tu luyện bản thân và cứu độ chúng sinh. Có vị bị loạn Pháp lạn quỷ thao túng cảnh sát tà ác bắt giữ, có vị bị nhân tố tà ác dùng nghiệp bệnh bức hại lấy đi nhục thân, tôi nghĩ bài học xương máu về phương diện này đã đủ để chúng ta thanh tỉnh rồi.
Một lần cùng đồng tu giao lưu, tôi gặp một vị nữ đồng tu trẻ tuổi, vừa trượt ngã do tạo nghiệp trong tình cảm nam nữ, loạn Pháp lạn quỷ lấy đó làm cớ, mưu đồ dùng phương thức nghiệp bệnh bức hại chết đồng tu. Biểu hiện tại không gian người thường là: tâm tạng, trước ngực, phần lưng không ngừng đau buốt dữ dội, toàn thân phát lạnh, đồng thời nữ đồng tu nhìn thấy, cảm thấy rất nhiều sinh mệnh mặc y phục cổ trang lôi kéo nguyên thần cô ly thể. Lúc giao lưu tôi ngồi bên cạnh cô, cô yên lặng cúi đầu. Bỗng nhiên cô ngẩng đầu lên, đôi mắt mệt mỏi phóng ra màu sắc dị dạng, nhìn tôi nói: “Ôi chao, anh không có vật chất tình dục, tôi có thể cảm giác được! Ngồi cùng với anh, điều gì cũng không nghĩ nữa, chỉ là cảm giác rất dễ chịu, tôi biết tôi sai ở đâu rồi!” Tôi nói: “Đây là uy lực của Đại Pháp. Chúng ta là đệ tử Chính Pháp, là một lạp tử trong Đại Pháp, thân tâm hoàn toàn do đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn của vũ trụ cấu thành. Trong «Chuyển Pháp Luân» Sư tôn giảng: ‘Bởi vì [đứng] tại sinh mệnh cao cấp mà xét, thì sinh mệnh [đời] người không phải vì để làm người. Họ cho rằng sinh mệnh con người là [được] sản sinh trong không gian vũ trụ, có cùng tính chất với vũ trụ, là lương thiện, là cấu thành từ chủng vật chất Chân Thiện Nhẫn.’ Tôi ngộ rằng: Ngoại trừ Chân, Thiện, Nhẫn là tự ngã chân chính ra, hết thảy quan niệm trong tư tưởng không phù hợp với Pháp đều không phải là tự ngã, đều là quan niệm chấp trước, cần phải tận diệt, bao gồm quan niệm về ‘cái tôi’. Sinh mệnh chúng ta là thuộc về Đại Pháp, là vì chứng thực Đại Pháp, cứu độ chúng sinh mà tồn tại, không phải đến để chịu bức hại, cho dù chúng ta có chấp trước, thiếu sót thì quy chính trong Đại Pháp, Đại Pháp và Sư phụ không thừa nhận bức hại, chúng ta cũng kiên quyết không cần, không nhận nó”. Nữ đồng tu nói: “Đúng rồi”. Tôi nói tiếp: “Đại Pháp triển hiện tại cảnh giới tu luyện của tôi là: Từ không gian khác mà nhìn nhục thân con người, quả thực là một khối bùn nâu đậm hình người, trường vật chất mà nhục thân mang theo là dính dính, bẩn bẩn, có mùi tanh nồng. Thần hộ Pháp ở không gian khác đều bảo trì cự ly nhất định với trường vật chất mà nhục thân người tu luyện mang theo, không dám dùng ‘tay’ chạm vào trường vật chất này, đề phòng vật chất dơ bẩn ô nhiễm Thần thể. Nếu như nam nữ loạn tính tạo nghiệp nghiêm trọng, nhục thân con người từ không gian khác nhìn giống như một đám bùn nhão dơ dáy, xú khí ngút trời, sinh mệnh chính diện ở không gian khác đi qua sinh mệnh như vậy đều bịt mũi lại, chỉ có ma sắc, loạn quỷ mới thích thân thể vật chất và mùi vị này”. Chia sẻ xong, nữ đồng tu không ngừng dùng Pháp quy chính tư tưởng quan niệm bất chính của bản thân, bản tính của Thần “bắt đầu” tỉnh lại giác ngộ, lúc này không gian chưa đồng hóa với Pháp của cô cũng phát sinh rất nhiều biến hóa: Không gian đen tối bắt đầu có ánh sáng, cũng như mây đen không che khuất mặt trời được nữa; lượng lớn âm linh, sinh mệnh tà ác vì phần Thần đã giác ngộ của đồng tu chiếu hào quang chính niệm mà lập tức hóa thành bụi khói tiêu mất; những cơn hồng thủy màu đen mãnh liệt trong không gian bắt đầu rút lui. Tai nạn qua đi, chúng sinh trong trường không gian đối ứng của đồng tu từ sắc mặt trắng xanh đã nở nụ cười hy vọng, bắt đầu chỉnh trang quê nhà… Tôi tiếp tục nói: “Người tu luyện nhất định phải bỏ tâm chấp trước sắc dục. Khi trong tư tưởng tôi phản xuất tình cảm nam nữ, tôi liền niệm 81 lần giảng Pháp của Sư tôn, mãi cho đến khi triệt để diệt trừ can nhiễu nhân tâm. Lúc bỏ tâm chấp trước, đúng là đau đớn như khoét tim đục xương, nhưng chúng ta là đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp, nếu dùng thống khổ thân tâm mà chúng ta phải chịu trong tu luyện hoán đổi sinh mệnh của vô lượng chúng Thần, nếu dùng phó xuất thân tâm của chúng ta để khai sáng hoàn cảnh và phương thức sinh tồn tốt đẹp nhất cho chúng sinh trong vũ trụ mới, thì sự tình này có ý nghĩa biết nhường nào! Cái khổ mà chúng ta phải chịu đã đánh đổi được điều gì?” Rất nhanh, dưới gia trì bảo hộ của Sư tôn, trong phối hợp chính niệm của các đồng tu, nữ đồng tu vượt qua quan nghiệp bệnh, lại bắt đầu nhập vào dòng hồng lưu của Chính Pháp.
Sau này, tôi lại gặp lại vị nữ đồng tu này lần nữa; sau khi học Pháp cùng đồng tu, đồng tu tiễn tôi ra cửa. Tiễn được một đoạn, tôi lặng lẽ quay đầu lại, thấy đồng tu vẫn đứng giữa cơn gió lạnh, mái tóc dài tung bay trong gió. Khuôn mặt yên tĩnh, mơ màng nhỏ giọt lệ óng ánh, ánh mắt cô hàm chứa cảm động từ nội tâm, sung mãn tín tâm, kiên định nói lời tạm biệt tôi. Tôi biết rằng trong những năm tháng tương lai, trên con đường trợ Sư Chính Pháp, đồng tu nhất định sẽ làm tốt hơn nữa. Là người tu luyện, hễ động nhân tâm hễ động tình thì chính là ở trong chấp trước, sinh mệnh sẽ chịu ước chế, ràng buộc của nhân tố vật chất trong tam giới, thân tâm nằm trong luân hồi nghiệp lực của tam giới, sẽ có thống khổ, Sư tôn nói: “Không có bất cứ hoạt động ý niệm nào, bất cứ ý niệm nào đều là chấp trước.” (Giảng Pháp tại Pháp hội Sydney, bản dịch chưa chính thức)
Dịch từ:
http://chanhkien.org/2013/09/bau-troi-cua-lich-su-diet-tru-tam-sac-duc.html

Thứ Năm, 9 tháng 5, 2013


Bí ẩn thân thế của Tần Thủy Hoàng

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp người Tây phương

[Chanhkien.org]
1. Trong sử sách nói như sau
Tần Thủy Hoàng là một nhân vật sáng lập thời đại mang đầy màu sắc truyền kỳ trong lịch sử Trung Quốc, cũng là một một nhân vật không ngừng được mọi người bàn luận. Theo ghi chép, Tần Thủy Hoàng (sinh năm 259 – mất năm 210 TCN), họ Doanh, tên Chính, sinh tại Hàm Đan (nay thuộc tỉnh Hà Bắc). Người đời sau quen gọi là Doanh Chính hay Tần Vương Chính. Tự xưng là “Tần Thủy Hoàng”, ông kế vị năm 13 tuổi, năm 39 tuổi thống nhất sáu nước kiến lập nên triều Tần, qua đời trong lúc đi tuần ở tuổi 50. Tần Thủy Hoàng là một người áp dụng chế độ quân chủ chuyên chế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, và là một người sáng lập “trung ương tập quyền” thống nhất quốc gia đầu tiên, cũng là đấng quân chủ sử dụng xưng hiệu “Hoàng đế” đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gian tại vị, Tần Thủy Hoàng cũng đã tiến hành nhiều hạng mục công trình loại lớn, bao gồm xây dựng Trường Thành, cung A Phòng, lăng Ly Sơn… Trong một đời thống nhất thiên hạ, ông xưng Hoàng đế, phế bỏ chế độ phân đất phong hầu, thiết lập quận huyện, chinh phạt Bách Việt, trục xuất Hung Nô, xây Trường Thành, thông kênh đào, đúc binh khí, di dời phú hào, chuẩn hóa giao thông, chuẩn hóa chữ viết, chuẩn hóa tiền tệ và dạng đồng tiền, thống nhất hệ thống đo lường, thành lập bộ máy quan liêu đồng bộ từ trung ương đến quận, huyện, ban hành luật pháp thống nhất, lấy pháp trị quốc. Đối với đại thống nhất Trung Quốc, kiến lập chế độ chính trị, xác lập bản đồ, ông đều khởi tác dụng không thể xóa mờ đối với sự kế thừa đổi mới của dân tộc Trung Quốc, tạo nên ảnh hưởng sâu sắc đối với Trung Quốc hậu thế.
Năm Tần Thủy Hoàng mất, nghĩa là trong vòng một năm của năm 211 TCN (Tần Thủy Hoàng 49 tuổi), liên tục xảy ra ba câu chuyện kỳ lạ sau:
Theo ghi chép trong “Sử ký”, trước hết là hiện tượng thiên văn “Huỳnh hoặc thủ tâm” xuất hiện vào năm đó, người xưa gọi sao Hỏa là “huỳnh hoặc”, còn “tâm túc” chính là “chòm sao bò cạp” của thiên văn học hiện đại, mà sự xuất hiện của “huỳnh hoặc thủ tâm” lại được gọi là “đại hung chi triệu” (nghĩa là điềm báo có tai họa lớn), nhẹ thì Thiên tử mất ngôi, tình huống nghiêm trọng thì là Hoàng đế băng hà.
Cùng năm đó một mảnh thiên thạch đã rớt xuống tại khu vực Đông quận (nay là thành phố Bộc Dương, tỉnh Hà Nam), cùng lúc đó có người đã khắc lên trên mảnh thiên thạch 7 chữ “Thủy Hoàng Đế tử nhi địa phân” (nghĩa là sau khi Hoàng đế Tần Thủy Hoàng chết, quốc gia sẽ lại xuất hiện chiến loạn, và triều Tần cũng sẽ theo đó diệt vong).
Cũng mùa Thu năm đó, có một vị sứ giả từ Quan Đông đi đường đêm ngang qua con đường “Hoa âm bình thư”, trong lúc ấy có một người tay cầm ngọc bích đã chặn sứ giả lại, yêu cầu sứ giả mang ngọc bích dâng đến Hạo Trì quân, đồng thời nói “kim niên Tổ Long tử” (nghĩa là năm nay Rồng Tổ sẽ chết). Người sứ giả hỏi anh ta nguyên do, thì cùng lúc đó người đó biến mất dạng, đồng thời để lại ngọc bích, sứ giả đành phải mang ngọc bích về thuật lại cuộc gặp gỡ kỳ lạ của mình cho Tần Thủy Hoàng.
Sau đó, Tần Thủy Hoàng yêu cầu Ngự phủ xem xét miếng ngọc bích đó, không ngờ phát hiện miếng ngọc bích này là miếng ngọc mà Thủy Hoàng năm 28 tuổi ra ngoài tuần tra, trong lúc vượt sông đánh rơi xuống dưới nước. Rồi Tần Thủy Hoàng lại tiến hành chuyến tuần du lần thứ 5 vào năm 210 TCN (Tần Thủy Hoàng 50 tuổi), cũng là lần tuần du cuối cùng trong những năm ông còn sống.
2. Những điều nhìn thấy trong định
Trong trạng thái định khi tu luyện Đại Pháp, Sư phụ đã đả khai ký ức xa xưa cho tôi:
Sư phụ vì Chính Pháp đã sáng tạo nên nhân loại. Rồi nhân loại bắt đầu “binh chinh thiên hạ, vương giả trị quốc” (chiến chinh giành thiên hạ, kẻ làm vua trị quốc). Chính Pháp này tự nhiên có quan hệ với Rồng. Trong lịch sử, cách ngày hôm nay 2.000 năm, Rồng đã từ trong cơ thể của mình lấy ra rồng con, đặt vào trong bụng của [người con gái] họ Triệu. Triệu Cơ cũng chưa động phòng với Tần Trang Tương Vương, mà lại có mang. Vương nổi giận và muốn giết chết nó. Rồng đã răn bảo Trang Tương Vương về lai lịch của đứa con này, đồng thời nói rõ ngày sau đứa con này sẽ được tôn làm Thiên tử, có phúc phận lớn, vận mệnh lớn, có cống hiến lớn với nước, với dân, với con cháu, nhắc nhở ông phải chăm lo cho tốt. Vương rất sợ lại rất mừng, xem như con ruột của mình, sau này quả nhiên chỉ định truyền ngôi lại cho cậu bé. Cậu chính là vị Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử nhân loại —Tần Thủy Hoàng.
Liên quan đến bí ẩn thân thế của ông, có nhiều sự tranh luận. Theo ghi chép trong “Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ”, Tần Vương Chính là do Tần Trang Tương Vương Tử Sở và Triệu Cơ sinh ra. Tuy nhiên trong “Sử ký – Lã Bất Vi liệt truyện” lại không ghi chép, lúc Lã Bất Vi mang Triệu Cơ hiến tặng cho Tử Sở, thì đã biết được bà có mang, cũng có nghĩa là rất có khả năng Doanh Chính là đứa con riêng của Lã Bất Vi. Sử gia thời Đông Hán Ban Cố cũng đã dẫn dụng cách nói này, trong cuốn “Hán thư” nổi tiếng của ông đã gọi Doanh Chính là đứa con riêng của Lã Bất Vi. Mãi đến khi Tần Thủy Hoàng chết đã gần 2.000 năm sau, cũng vẫn có người tin rằng Tần Thủy Hoàng là con riêng của Lã Bất Vi.
Trong trạng thái định khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, tôi biết được rằng, Tần Hoàng Doanh Chính là đứa con đầu tiên của Rồng tại nơi con người, vào năm ông qua đời đã có Thần nhân gọi Tần Thủy Hoàng là “Tổ Long”, xem ra là có nguyên nhân của nó.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/110965
http://chanhkien.org/2013/04/bi-an-than-the-cua-tan-thuy-hoang.html

Bầu trời của lịch sử: Thần hành tại thế

Tác giả: Thiện Dũng

[Chanhkien.org] Tôi là đệ tử Đại Pháp thông qua tu luyện Pháp Luân Đại Pháp mà đạt đến trạng thái tiệm ngộ. Qua 16 năm tu luyện thực tiễn trong Đại Pháp, trải qua rất nhiều sự việc thần kỳ siêu thường, nay viết ra một phần để giao lưu cùng các đồng tu. Dưới đây chỉ là thể hội chứng ngộ trong tu luyện Đại Pháp của cá nhân, có chỗ nào thiếu sót mong quý đồng tu chỉ giúp.
1. Chính niệm
Hết thảy những gì của đệ tử Chính Pháp đều bắt nguồn từ chính tín kiên định vào Phật Pháp vĩ đại, không có chính tín thì cũng không có chân tu, công năng chỉ là một chủng hiện tượng tất nhiên trong quá trình chứng ngộ chân lý Phật Pháp của đệ tử chân tu. Công năng thực ra là vì chứng thực Đại Pháp, dùng để phá trừ bức hại của cựu thế lực, cứu độ chúng sinh; nếu không, dùng bằng nhân tâm thì không có ý nghĩa gì cả, cũng như nhập ma đạo.
Từ sau 20-7-1999 trở đi, tôi cũng như hàng nghìn hàng vạn đệ tử Chính Pháp, sau khi giao lưu cùng các đồng tu trong vùng đã quyết định đi Bắc Kinh chứng thực Pháp và duy hộ Đại Pháp. Trong 9 vị đệ tử Đại Pháp lên Bắc Kinh chúng tôi, có một vị đồng tu mà chị gái là nhân viên công tác Phòng 610 của tà đảng tại địa phương, sau khi biết đồng tu đi Bắc Kinh, chị ta phối hợp với cảnh sát tà ác ở khu vực mưu đồ bắt giữ phi pháp các đồng tu đi Bắc Kinh chứng thực Pháp. Hôm ấy sau khi lên xe, tôi đợi các đồng tu khác đến, được một lúc thì chị gái đồng tu dẫn nhân viên tới chỉ vào tôi, nói: “Anh ta luyện Pháp Luân Công!” Đợi các đồng tu khác lần lượt lên xe, chị ta bắt em gái mình cưỡng chế đưa đi, còn nhân viên thừa hành dẫn rất nhiều cảnh sát tới kiểm tra nghiêm ngặt thùng xe ô-tô chúng tôi. Từng người bị chất vấn xem có phải tập Pháp Luân Công không, có mấy vị đồng tu bị cảnh sát dẫn đi. Lúc ấy tôi nghĩ: Ta là đệ tử Đại Pháp, con đường tu luyện của ta là do Sư phụ an bài, ai nói gì cũng không được tính. Khi cảnh sát dẫn các nhân viên thừa hành tới cạnh tôi, tôi bình tĩnh nhìn họ, tâm bình tĩnh như nước hồ, không chút gợn sóng. Cảnh sát liên tục hỏi những người xung quanh tôi, nhưng không hề hỏi tôi, các nhân viên thừa hành cũng tựa như không biết tôi vậy. Toán cảnh sát này đi rồi, lại một toán khác đến thẩm vấn những người quanh tôi, nhưng chỉ đi qua tôi như không nhìn thấy tôi vậy. Dưới sự bảo hộ từ bi của Sư tôn, vào 7 giờ 40 phút sáng ngày 03-01-2000, tôi và một vị đồng tu khác luyện công ôm bão luân chứng thực Đại Pháp trên quảng trường Thiên An Môn. Trong thời khắc ấy, cả thế giới tựa như ngừng thở, hết thảy thế gian đều tĩnh chỉ lại, không còn những tiếng huyên náo; tôi nhìn lên bầu trời, thấy vô lượng Thần Phật mắt không động đậy nhìn tôi và đồng tu, ánh mắt đầy quan tâm, nhưng hai hàng lệ chảy dài……
Tôi và một vị đồng tu, trong quá trình chứng thực Pháp, giảng thanh chân tướng, do đồng tu bị kẻ ác trình báo, đối diện trước mặt là cảnh sát tà ác bắt giữ phi pháp. Tôi chính niệm nhìn thẳng vào cảnh sát, nội tâm thản nhiên bất động, tâm như nước chết, phát xuất một niệm cường đại: “Điều ta làm là chân chính nhất, chứng thực Đại Pháp, tà ác không xứng bức hại ta”. Cảnh sát và ác nhân hoàn toàn bị chính niệm của tôi ức chế, cặp mắt ngây dại, tựa như nhìn không thấy tôi, tôi thản nhiên bước qua tà ác. Lại một lần nữa Sư tôn từ bi bảo hộ tôi thoát khỏi hiểm cảnh, sau đó toàn thành phố ra lệnh giới nghiêm. Dưới phối hợp chính niệm của chỉnh thể đồng tu, bức hại của tà ác đã triệt để giải thể.
2. Dự báo
Một lần giao lưu cùng đồng tu, tôi gặp một vị điều phối viên đang lưu lạc. Trong khi chia sẻ, cô nói tối định về nhà thăm hỏi chồng, nhưng các đồng tu đều không đồng ý. Khi phát chính niệm đồng bộ toàn cầu, trong định tôi nhìn thấy trường không gian của vị nữ đồng tu này chứa đầy vật chất tình, loạn Pháp lạn quỷ mưu đồ viện cớ đó khống chế cảnh sát tà ác, chuẩn bị rình bắt vị đồng tu này. Phát chính niệm xong, tôi kể với cô cảnh tượng mà tôi nhìn thấy, giao lưu dựa trên Pháp với vị đồng tu này, giúp đồng tu nhận ra cái tình của mình với chồng, hiểu rõ người tu luyện cần đối đãi vấn đề này như thế nào, cũng như tính nguy hại mà tình mang tới. Lúc này, tâm tính đồng tu thăng hoa thực chất trong Pháp, trường không gian tự thân vốn vẩn đục nay trở nên thuần tịnh, quanh đầu đồng tu xuất hiện một vòng hào quang màu xanh lam, ánh sáng trí tuệ tỏa khắp bốn phía. Chúng tôi cùng nhau học Pháp, phát chính niệm, đến 8 giờ sáng ngày hôm sau, chồng nữ đồng tu đến chỗ chúng tôi, nói: “Ái chà, may mà tối qua em không về nhà, nếu không cảnh sát đến bắt em và cả nhà đi rồi”. Nữ đồng tu nghe xong mỉm cười.
Loại tình huống như thế này tôi đã gặp qua nhiều lần, người tu luyện là phải trừ bỏ hết thảy nhân tâm nhân tình, trong tu luyện mang theo bất cứ thứ tình nào mà không bỏ thì đều cực kỳ nguy hiểm.
3. Tha tâm thông
Bên cạnh tôi có một vị nam đồng tu trẻ tuổi chưa kết hôn, do công tác bận rộn nên có lúc học Pháp buông lơi. Là đồng tu bên cạnh anh, tôi thường xuyên đốc thúc anh. Một đoạn thời gian học Pháp luyện công và làm công tác chứng thực Pháp cùng anh, cứ cảm thấy anh có điều gì đó là lạ, hiệu quả khi chia sẻ cùng anh cũng không tốt. Tôi tĩnh tâm lại, dùng công năng tha tâm thông quan sát tư tưởng anh, xem nút thắt trong tâm anh là gì, nhìn thấy trong tư tưởng anh có một hình tượng cô gái mặc áo trắng, hơn nữa vị nam đồng tu này rất nhớ nhung cô gái áo trắng đó, tựa như ngày đêm tơ tưởng, không thể tự thoát ra được. Đồng thời tôi nhìn thấy trong trường không gian của đồng tu có một con ma sắc màu xanh đen, xấu xí hung ác, toàn thân tiết ra chất dịch tanh tưởi, không ngừng nôn ra rất nhiều vật chất bẩn thỉu xú uế màu đen lên đầu đồng tu. Tôi lập tức phát chính niệm thanh lý can nhiễu bức hại của ma sắc lên đồng tu. Khi ma sắc bị chính niệm cường đại của tôi giải thể rồi, biểu hiện bên ngoài của đồng tu giống như trút được gánh nặng, đôi mắt lờ đờ biến thành trong suốt. Tôi nói với anh: “Con đường của người tu luyện đều được Sư phụ an bài tốt đẹp cả rồi, đối với lợi ích vật chất thế gian cần tùy kỳ tự nhiên, tình cảm nam nữ xử lý không khéo rất dễ tạo đại nghiệp, bị tà ác dùi vào sơ hở, bài học xương máu về vấn đề này đã quá nhiều rồi. Duyên phận thế gian của cô gái áo trắng kia với anh rất bạc, chỉ như bèo nước gặp nhau, cô ấy không lâu nữa sẽ rời bỏ anh. Anh là người tu luyện thì nên buông bỏ ảo tưởng không thực tế kia đi, cần phải hiểu rõ sứ mệnh của một đệ tử Chính Pháp—tu luyện của chúng ta quyết định sống chết của vô lượng chúng sinh”. Nam đồng tu vừa nghe tôi nói đã thất kinh, cúi đầu trầm tư. Thông qua chia sẻ, đồng tu nhận thức được rằng làm người tu luyện trước tiên phải loại bỏ chấp trước vào tình cảm nam nữ, mới có thể phản bổn quy chân, triệt để giải thoát khỏi nỗi khổ vô tận của luân hồi; thứ nữa, làm đệ tử Chính Pháp thì ắt phải làm tốt ba việc Sư tôn yêu cầu, nếu không hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Đồng tu không ngừng học Pháp, hướng nội tìm, quy chính thiếu sót; không lâu sau, cô gái áo trắng kia biến mất khỏi cuộc sống của nam đồng tu, không còn bất cứ liên hệ gì nữa.
Người tu luyện đứng tại góc độ của Pháp mà đối đãi vấn đề, xử lý mâu thuẫn, thì điều Đại Pháp cấp cho đều là tốt đẹp nhất. Đối với lợi ích vật chất thế gian, người tu luyện ôm mãi không buông, thì rất dễ mất đi hết thảy những gì cần có.
4. Dao thị
Một vị nữ đồng tu trẻ tuổi, do chướng ngại chấp trước vào tình thân quyến với cha mẹ, nên rốt cuộc vẫn chưa bước ra. Trong thời gian đi công tác, cô gặp một vị đồng tu đã quen từ trước, vì thế bắt đầu tu luyện trở lại. Cha mẹ cô biết được bèn tìm mọi cách ngăn cản nữ đồng tu tu luyện, mẹ cô tuyên bố có khối u ác tính, để con gái phải trở về nhà, làm đồng tu rất phiền não. Chia sẻ cùng cô biết được tình huống này, tôi nói với cô: “Tu luyện khi làm việc phải dĩ Pháp vi Sư, chứ không phải theo tình cảm mà làm. Chấp trước vào tình thân quyến là quan mà mỗi người tu luyện đều phải vượt qua, gặp mâu thuẫn trước tiên hướng nội tìm. Không chỉ có chị, tôi cũng phải hướng nội tìm, vô lậu rồi can nhiễu tự diệt”. Đồng thời tôi vận dụng công năng dao thị, đoạn nói với cô cảnh tượng tôi nhìn thấy: “Thân thể mẫu thân chị rất kiện khang”. Nữ đồng tu hướng nội tìm, tìm thấy chấp trước vào tình thân quyến, bèn kiên định chính niệm của người tu luyện, đồng thời tôi cùng cô phát chính niệm thanh lý con ma có hình tượng yêu thú to lớn như trong truyền thuyết Tây phương đang khống chế mẹ cô. Sau đó họ hàng cô ở quê nói với cô, mẹ của cô không có bệnh có u gì hết, thân thể rất khỏe mạnh. Nhờ chính niệm của nữ đồng tu, can nhiễu đến từ mẹ cô đã chấm dứt, nữ đồng tu chứng thực Pháp cùng các đệ tử Đại Pháp khác trong hoàn cảnh tu luyện mới, không ngừng tinh tấn.
Vùng chúng tôi có một cặp vợ chồng trung niên bị cảnh sát bắt giữ, người nhà đồng tu rất lo lắng, định dùng tiền hối lộ cảnh sát. Mấy hôm ấy tôi cùng các đồng tu đến nhà vị đồng tu này, người nhà đồng tu hỏi tôi: “Tình huống vợ chồng họ trong hang ổ đen tối ấy như thế nào?” Tôi cân nhắc một lúc. Tôi cho rằng tôi nên dùng công năng nhìn xem tình huống ra sao để chia sẻ với các đồng tu, cũng tiện phối hợp chỉnh thể, phá trừ an bài của cựu thế lực. Nam đồng tu nhân tâm rất nhiều, không đứng tại Pháp, đã khai ra hết rồi, còn nữ đồng tu khá kiên định. Trước tình huống này, các đồng tu chúng tôi đều hướng nội tìm, giao lưu cùng nhau, cuối cùng có chung nhận thức: Trước tiên lên mạng nhờ các đồng tu ở địa phương gia trì chính niệm, sau đó người nhà đồng tu đến hang ổ giam giữ phi pháp đồng tu, tìm những nhân vật chủ chốt bức hại để phơi bày tà ác, giảng rõ chân tướng. Nhưng người nhà đồng tu chấp trước vào tình thân không buông được, thỏa thuận với người nhà không tu luyện dùng một lượng tiền lớn hối hộ cảnh sát. Sự tình xảy ra rồi, do người nhà đồng tu dùng tình thân đối đãi với bức hại của tà ác, chứ không dùng chính niệm của người tu luyện đối đãi, nên Pháp tại cảnh giới tu luyện của tôi triển hiện là: Tầng thứ không gian nhất định đối ứng với thân thể người nhà đồng tu đã phát sinh biến hóa cực kỳ đáng sợ. Thế giới nguyên ban đầu đẹp đẽ vô tỷ đã trở thành núi lở đất long, thây chết khắp đồng, không có ánh sáng, hoàn toàn bị “thế lực hắc ám” che phủ. Biểu hiện tại không gian người thường là thân thể xuất hiện bệnh nghiệp nghiêm trọng. Người nhà không tu luyện mà đã hối lộ cảnh sát tà ác, vì biến tướng trợ giúp tà ác, nên trường không gian khác đối ứng sản sinh một lượng vật chất màu đen to lớn, như núi như trời, tương lai sẽ đối diện với cảnh ngộ hết sức bi thảm. Nam đồng tu được dùng tiền chuộc ra rồi, trạng thái tu luyện dao động mãi không thôi, còn nữ đồng tu bị kẻ ác hãm hại oan ngục. Thông qua sự kiện này tôi ngộ được rằng tu luyện là nghiêm túc phi thường, người tu luyện dùng tình đối đãi với các đồng tu xung quanh, thì tương đương với can nhiễu đồng tu tu luyện; người tu luyện dùng tình đối đãi với người nhà không tu luyện, thì có lúc đúng là can nhiễu thế nhân được Đại Pháp cứu độ, thậm chí khởi tác dụng phụ diện mà không biết, quả là hại mình hại người.
5. Thấu thị
Tham gia nhóm học Pháp, một vị nữ đồng tu xuất hiện nghiệp bệnh can nhiễu, biểu hiện là một bên lưng xuất hiện chấm đỏ, sau đó là bóng nước, đồng thời đau như kim châm. Dùng tầng nông của thiên mục mà nhìn, vị trí nghiệp bệnh đầy ắp khí đen, âm khí xanh sẫm, hướng vào sâu mà nhìn thì là một linh thể như con gấu đen. Sau đó tôi kể cho mọi người quan hệ nhân duyên giữa linh thể gấu đen này với vị nữ đồng tu trong lịch sử xa xưa. Sau khi các đồng tu chia sẻ với vị nữ đồng tu này, nữ đồng tu hướng nội tìm, thấy rằng khi gặp khảo nghiệm tâm tính thì không thể thực hiện cái Nhẫn của người tu luyện, bực mình tức giận. Cô phát xuất một niệm: Nợ thiếu phải hoàn trả, nhưng cô tu Đại Pháp rồi, hết thảy can nhiễu đều là trái với Đại Pháp, nhân tố tà ác can nhiễu tu luyện của đệ tử Chính Pháp đều phải diệt tận. Thông qua nhiều lần phát chính niệm, linh thể gấu đen ở không gian khác đã bị Đại Pháp triệt để thanh lý. Nữ đồng tu khỏi bệnh rồi, chỗ da nơi nghiệp bệnh lưu lại một vết bàn chân gấu, móng vuốt có thể nhìn thấy rõ ràng.
6. Túc mệnh thông
Trong quá trình giảng thanh chân tướng, do cơ duyên thế gian dẫn dắt, tôi gặp rất nhiều người cả đời chỉ gặp một lần. Một lần dùng cơm ở một quán ăn tại Tân Cương, chủ quán là một cô gái trẻ người tộc Duy Ngô Nhĩ, chiêu đãi khách rất ân cần nhiệt tình. Nhìn vẻ tươi cười trên khuôn mặt lương thiện của cô, tôi có cảm giác rất thân quen, vậy là tôi dùng công năng túc mệnh thông nhìn cô gái này, thấy rằng quá khứ cô từng có thế duyên rất sâu với tôi. Để chờ đợi vị Thần vĩ đại nhất trong vũ trụ hạ xuống nhân gian cứu độ, trong lục đạo luân hồi, cô đã khổ đợi 7.000 năm, trải đủ ma nạn. Lúc này khách trong quán ăn xong liền ra đi, nữ chủ quán đứng cách tôi không xa đang dọn dẹp bát đĩa, trong vô ý tôi phát hiện ở không gian khác xuất hiện một cô gái giống như cô đang khóc, quỳ lạy hướng về bầu trời phía Tây nơi có Pháp thân Sư tôn. Pháp thân Sư tôn từ bi nhìn tôi và cô, tôi hỏi: “Cô tin đạo Hồi phải không?” Cô đáp: “Vâng, tin chứ, anh thì sao?” Tôi nói: “Tôi là người tu Phật, nhưng tôi tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo của cô. Người có tín ngưỡng là người lương thiện, là có Thần trông nom”. Nữ chủ quán nói: “Đúng vậy!” Tôi nói: “Đảng cộng sản theo thuyết vô thần, không để người ta tin Thần, rất xấu xa”. Nữ chủ quán nói: “Đảng cộng sản rất xấu”. Tiếp đó tôi giảng về Cửu Bình, tiên tri dự ngôn trong lịch sử, tam thoái, v.v. Nữ chủ quán nghe chân tướng Đại Pháp xong, không chỉ tự mình tam thoái, mà còn gọi người thân tới nghe chân tướng Đại Pháp và làm tam thoái. Cuối cùng cô nói với tôi tên cô là A Y Cổ Lệ, nghĩa là hoa mặt trăng. Lúc tôi ra đi, cô và người nhà đều rất thành khẩn cảm tạ tôi, tiễn tôi một đoạn rất xa.
Đệ tử Chính Pháp cần nắm chắc mỗi cơ hội giảng chân tướng, rất nhiều thế nhân chỉ có một lần cơ duyên lắng nghe chân tướng Đại Pháp. Chờ đợi mấy nghìn năm, chúng ta không thể có trách nhiệm với con người thế gian hay sao? Công năng Đại Pháp ban cho là một loại thể hiện khác của Phật Pháp trang nghiêm, vận dụng thế nào cho chính, cho Thiện là lựa chọn của mỗi vị đệ tử Chính Pháp.
Sinh mệnh trải qua lịch sử vũ trụ dài đằng đẵng đi đến ngày hôm nay, trong thời khắc then chốt của lịch sử, mỗi sinh mệnh đều tuyển chọn con đường tương lai của bản thân mình. Người đời trầm mê trong cõi hồng trần, còn đệ tử Chính Pháp kiên định chính niệm kim cương bất động vào chân lý vũ trụ, chính niệm chính hành, dùng sinh mệnh và máu viết nên bài văn Chính Pháp, như một tấm bia phát sáng, mãi mãi tỏa sáng bầu trời của lịch sử vũ trụ tương lai.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/70996
http://chanhkien.org/2013/05/bau-troi-cua-lich-su-than-hanh-tai-the.html

Thứ Hai, 15 tháng 4, 2013


Bầu trời của lịch sử: Luyện tốt động tĩnh công

Tác giả: Thiện Dũng

[Chanhkien.org] Trong thời gian dài, tôi để ý có đồng tu cá biệt bên cạnh mỗi ngày không thể kiên trì luyện tốt động tĩnh công, xuất hiện nhục thân suy lão ở các mức độ khác nhau, cũng có đồng tu trường kỳ gặp nghiệp bệnh can nhiễu. Tuy loại trạng thái không đúng đắn này có rất nhiều nguyên nhân, nhưng không thể kiên trì luyện tốt năm bài công pháp rõ ràng là một nguyên nhân. Bởi vậy tôi muốn cùng các đồng tu giao lưu thể hội tu luyện về luyện năm bài công pháp, có thiếu sót gì, xin từ bi chỉ giúp.
Trong «Đại Viên Mãn Pháp», Sư tôn giảng: “Không tu tâm tính, chỉ luyện động tác thì không thể tăng công; chỉ tu tâm mà không luyện Đại Viên Mãn Pháp, thì công lực bị [ngăn] trở, và không cách nào cải biến được bản thể.
Trong thực tiễn tu luyện, tôi ngộ ra rằng nếu như lười biếng luyện công, thì nhục thân dễ dàng mệt mỏi, từ không gian khác mà nhìn, Pháp tại cảnh giới tu luyện của tôi triển hiện là: Do thân ở trong xã hội người thường, chịu ô nhiễm của quan niệm đạo đức biến dị của người thường, mỗi ngày qua cảm quan mà hữu ý hoặc vô ý tiếp thụ, tích tồn vật chất bất hảo, thất tình lục dục của người thường, can nhiễu của quan niệm đạo đức biến dị và tà linh không gian khác khiến thân thể vật chất cấu thành từ các lạp tử khác nhau trong tam giới vốn chưa đồng hóa với Pháp bị ô nhiễm rất nghiêm trọng. Nếu không thể kiên trì học Pháp, luyện công mỗi ngày, hoặc học Pháp không nhập tâm, thì dần dần các nhân tố ô nhiễm này tích lại ngày càng nhiều, trường vật chất không gian khác đối ứng với nhục thân con người trông như một bãi rác, bẩn thỉu dơ dáy, từ tầng thấp của thiên mục mà nhìn thì loại trường vật chất này chứa đầy âm khí, quỷ khí xanh đen. Người tu luyện như thế rất dễ gặp can nhiễu của loạn Pháp lạn quỷ hoặc bức hại nghiệp bệnh.
Thông qua học Pháp tôi ngộ được rằng, nhục thân là Pháp khí chứng thực Pháp cứu độ chúng sinh mà Đại Pháp cấp cho người tu luyện, không thuộc về sở hữu cá nhân. Đệ tử Chính Pháp là đại biểu vô lượng chúng sinh tại vô số thể hệ tầng thứ vũ trụ đến thế gian đồng hóa Đại Pháp, dựa vào uy đức vô biên cứu độ chúng sinh của Phật Pháp, vì thế làm người tu luyện phải tu Thiện cái thân, nghiêm khắc yêu cầu mỗi lời nói mỗi hành vi của bản thân.
Trong một đoạn thời gian, do yêu cầu công tác, tôi phải luân phiên trực đêm, 8 giờ sáng tan ca mới về nhà, về nhà trước tiên luyện bài công pháp thứ hai. Thường rất buồn ngủ, nhưng tôi ngậm chặt hàm răng, quyết không dao động, niệm chín lần câu “nan nhẫn năng nhẫn, nan hành năng hành” của Sư tôn, không ngừng niệm không ngừng niệm. Có lần luyện công cực kỳ buồn ngủ, vừa niệm Pháp xong liền nhìn thấy một con tà linh mặt đỏ chân trần, mình khoác bào đen, đầu tóc rối bời, tay cầm một bát hương sắt màu đen, không ngừng thổi hương về phía tôi, muốn dùng “mê hương” để khiến tôi mê man. Nhưng tôi hễ niệm Pháp, thân thể phóng ra vạn đạo kim quang, tà linh mặt đỏ lập tức rút lui rất xa, quanh quẩn bên ngoài trường không gian của tôi mà không chịu đi. Tôi tiếp tục niệm Pháp, Pháp thân Sư tôn huơ tay một cái, tà linh biến mất vô ảnh vô tung. Quá trình này kéo dài khoảng 10 phút. Luyện công xong, tôi ngủ khoảng 3 tiếng, tỉnh dậy đầu não thanh tỉnh, sinh lực tràn trề, so với ngủ một đêm còn phấn chấn hơn.
Sư tôn giảng: “Chư vị đã thử nghĩ chưa, tu luyện là [cách] nghỉ ngơi tốt nhất, có thể đạt đến nghỉ ngơi mà chư vị ngủ cũng không đạt được, không có ai nói tôi luyện công luyện rất mệt rồi, hôm nay không làm được gì nữa“. (Giảng Pháp tại Pháp hội đầu tiên ở Bắc Mỹ, bản dịch chưa chính thức)
Tôi luyện công thường bão luân (ôm Pháp Luân) 2 tiếng đồng hồ, da dẻ bề mặt nhục thân trở nên rất mịn, đồng tu nói da tôi nhẵn bóng như đồ gốm vậy, hơn nữa thể lực tốt phi thường, hai tay có thể nhẹ nhàng xách vật nặng 240 cân (1 cân = 0,5 kg), đôi vai có thể gánh vật nặng 300 cân không trở ngại. Đồng thời do xem nhẹ tình cảm nam nữ, giữ chắc khí tinh huyết, nên thường 5, 6 ngày không ăn không uống, có lúc mười mấy ngày không ăn uống gì, mà công tác, sinh hoạt hết thảy đều bình thường. Cảm giác thân thể nhẹ nhõm bay bổng, tư tưởng thuần tịnh, tư duy sắc bén, lúc phát chính niệm đả xuất ra công, công năng uy lực rất lớn, công năng Đại Pháp cấp cho vận dụng càng đầy đủ, như ý.
Trong quá trình không ngừng học Pháp tu tâm hướng nội tìm, định lực cũng tùy theo tâm tính đề cao mà không ngừng tăng trưởng, luyện “Đại Viên Mãn Pháp” bài công pháp thứ năm, cố gắng kéo dài thời gian đả tọa hết mức, có lúc một đêm luyện hai lần tĩnh công. Trong định, luyện công lúc đầu “thấy” nhục thân giống như hoàn toàn do vật chất như nước cấu thành; sau khi đề cao tâm tính, “thấy” nhục thân và thế gian hết thảy tựa như do vật chất như “sương mù” cấu thành; từ trạng thái cao hơn nữa thấy vật chất hết thảy sinh mệnh trên thế gian là Pháp lý do Pháp vũ trụ tại một tầng thứ nhất định triển hiện —các nhân tố vật chất chính phụ đối ứng tạo thành.
Tăng cường luyện bài công pháp thứ năm —Thần Thông Gia Trì pháp, thể hiện rõ ràng nhất là bình thường tâm thái từ bi hòa ái, tạp niệm trong tư tưởng rất ít. Có lúc thể hiện trong hoàn cảnh công tác sinh hoạt ở xã hội người thường, một số đồng tu hoặc đồng sự trong công tác có chuyện tìm tôi, nhưng gặp mặt xong, thường không nghĩ ra phải nói gì nữa, một lúc mới nhớ ra. Có một vị nam đồng tu do nguyên nhân trạng thái tu luyện cá nhân, phát chính niệm rất ít khi thực sự nhập tĩnh nhập định; một lần tôi phát chính niệm cùng anh, phát chính niệm xong, anh nói: “Phát chính niệm cùng anh cảm giác thật tốt, vừa bắt đầu phát chính niệm, thì tay, thân thể đã định lại không động đậy nữa, tư tưởng an tĩnh tường hòa không có tạp niệm, một mạch đến khi kết thúc, cực kỳ mỹ diệu, cảm giác định thật là hay quá…”
Tôi từng gặp một vị nữ đồng tu trung niên, chân bị bệnh nghiệp can nhiễu gần nửa năm, tư thế đi đường rất bất bình thường, cũng can nhiễu bà chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh. Tôi cùng bà giao lưu về vấn đề này, cùng nhau hướng nội tìm, sau đó cùng phát chính niệm thanh lý can nhiễu nghiệp bệnh, liên tục phát chính niệm 1 giờ đồng hồ, sau đó đồng tu xuống giường thử đi mấy bước, mặt đầy vui sướng nói: “Trời ơi, thần kỳ quá, chân tôi khỏi rồi!” Tôi nói: “Đây là uy lực của Đại Pháp”.
Trong khoảng thời gian đi công tác phía Nam, tôi gặp một vị nam đồng tu trẻ tuổi đã quen nhau từ trước. Anh đắc Pháp năm 1999, sau ngày 20/7, do bức hại của tà ác đã mất đi hoàn cảnh tu luyện, cộng thêm cơ sở tu luyện cá nhân tương đối yếu kém, đến thành phố cải cách mở cửa miền duyên hải này, bị cuốn theo dòng, lẫn lộn với người thường, nam nữ loạn tính tạo nghiệp nghiêm trọng. Sau khi giao lưu cùng anh, đồng tu kiên quyết trở về con đường tu luyện, thế nhưng tôi dùng công năng thấu thị nhìn thấy do tạo nghiệp nghiêm trọng, hệ thống tiết niệu của anh bị lây nhiễm nghiêm trọng, hai bên tạng thận xuất hiện chứng viêm phù thũng, một bên tạng thận sưng phù rất nghiêm trọng, tạng gan có chứng viêm, cũng xuất hiện phù thũng, virus trong máu nồng độ rất cao, biểu hiện bề ngoài là lớp màng khoang miệng lở loét diện tích lớn. Hướng vào không gian thâm sâu đối ứng với thân thể anh mà nhìn, nghiệp lực như đám mây đen sắp trút cơn mưa lớn, che khuất mặt trời, rất nhiều âm linh tương tự quỷ hút máu có cánh trong truyền thuyết Tây phương đang bay lượn khắp bầu trời mặt đất. Âm linh da màu trắng xám, hai mắt đỏ đen, bốn chiếc răng nanh nhọn hoắt chìa ra ngoài môi, lại phát ra tiếng rít chói tai, có âm linh đang gặm rỉa thân xác của sinh mệnh hình người trong không gian ấy. Tôi nói qua với anh cảnh tượng đáng sợ mà tôi nhìn thấy, đồng tu nghe xong rất lo lắng, hỏi tôi: “Làm sao bây giờ?” Tôi đáp: “Chỉ có chân tu! Chỉ có chân tu!…”
Thông qua bàn bạc, chúng tôi cùng nhau thuê một căn nhà trọ, mỗi ngày học ít nhất một bài giảng Pháp, mỗi giờ phát chính niệm một lần, bão luân 2 tiếng đồng hồ, cùng nhau luyện tĩnh công 1 tiếng trở lên. Nam đồng tu ngoài lúc công tác ra, thời gian còn lại đều dùng vào học Pháp hướng nội tìm, tăng cường tu luyện Đại Pháp động tĩnh công.
Đồng tu không ngừng tinh tấn đề cao trong Pháp, khi tôi bão luân cùng anh, nhìn thấy trong các không gian khác nhau đối ứng với nhục thân của đồng tu, thỉnh thoảng có một “anh” khác do nghiệp lực cấu thành chết đi, dần dần tiêu tán trong đám mây đen rợp trời cấu thành bởi nghiệp lực. Khi đồng tu đọc nhẩm Pháp, trong tư tưởng đồng tu phát xuất Pháp Luân lớn, phân thể thành vô số Pháp Luân nhỏ màu vàng kim, không ngừng tiêu diệt đám âm linh “quỷ hút máu” với đôi cánh dài, vô số âm linh bị thiêu cháy rớt xác từ không trung. Dần dần, trường không gian của đồng tu trở thành sáng sủa, thế giới hắc ám với nghiệp lực cuồn cuộn cùng sự quy chính của đồng tu đã trở nên đẹp đẽ với những rặng núi xanh mướt, những dòng sông êm đềm, hiền hòa, ánh sáng chiếu rọi khắp mặt đất, một cảnh tượng phồn vinh thịnh vượng. Chỉ trong vòng mấy tháng, sắc mặt đồng tu từ xanh đen trở nên hồng hào, thể lực suy nhược trở nên cường tráng, thân thể cao 1,8 mét từ cân nặng 70 kg tăng lên gần 100 kg.
Hiện giờ nam đồng tu bão luân đã lên tới 4 tiếng đồng hồ, tại công ty anh công tác, từ tổng giám đốc tới nhân viên gần như đã toàn bộ tam thoái. Có đồng nghiệp còn đặc biệt mời đồng tu về nhà, giúp người nhà tam thoái; một nữ đồng sự của anh không chỉ tự mình tam thoái, mà còn dùng lý giải của bản thân khuyên mười mấy người tam thoái.
Từ lý của thế gian tam giới mà giảng, trong các ngành các nghề của xã hội, nhân tài là tại công tác, còn thiên tài là do tạo hóa. Là đệ tử Chính Pháp, Sư tôn đã dẫn chúng ta một mạch “khai sáng” tương lai của vũ trụ mới, tu luyện của mỗi vị đệ tử Chính Pháp chính là đặt định, gây dựng hoàn cảnh, phương thức sinh tồn của vô lượng chúng sinh trong tương lai vĩnh cửu, ý nghĩa tu luyện của đệ tử Chính Pháp có ảnh hưởng vô cùng vĩ đại và sâu xa. Cuối cùng xin trích giảng Pháp của Sư tôn để chúng ta cùng nhau nỗ lực:
Chỉ có học Pháp tu tâm, thêm vào đó phương tiện viên mãn là luyện công nữa, thật sự thay đổi chính mình từ căn bản, tâm tính đang đề cao, tầng thứ đang đề cao, đó mới là tu luyện chân chính.” (“Thế nào là tu luyện”, Tinh Tấn Yếu Chỉ)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/114325
http://chanhkien.org/2013/02/bau-troi-cua-lich-su-luyen-tot-dong-tinh-cong.html

Khi vở kịch lớn 5.000 năm hạ màn

Tác giả: Nhất Diệp
[Chanhkien.org] Tôi không biết tại sao lại thích Thần Vận như thế, năm nào tôi cũng xem đi xem lại đĩa DVD Thần Vận. Năm nay Sư phụ đã từ bi với chúng sinh Đại Lục, trong khi Thần Vận lưu diễn, Đài Truyền hình Tân Đường Nhân đã phát sóng vào Đại Lục nhân dịp năm mới, thực là cơ hội hiếm có, tôi thậm chí đã xem liên tục 3 lần. Từ nhỏ tôi đã yêu thích nghệ thuật, năm lớp 3, tôi chi 8 hào mua một cây sáo tre, chi 1 đồng mua một cây đàn nhị, chiếu theo bức tranh trong truyện tranh “Tam Quốc diễn nghĩa”. Con trẻ hôm nay đều bị người lớn bắt học cái này cái kia, cha mẹ tôi một chữ bẻ đôi cũng không biết, lúc ấy tôi rất hứng thú với những thứ đó mà không hay biết.
Tôi tốt nghiệp phổ thông năm 1966, sau đó nộp đơn vào Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn, nhưng có người chiêu sinh đến từ Bắc Kinh tới trường tôi tuyển sinh lại một mực khuyên tôi nhất định phải thi khoa vũ đạo tại Học viện Hí kịch Trung ương, bấy giờ do các trường cao đẳng nghệ thuật có kỳ sát hạch nên tôi phải thi lại. Lúc ấy cuộc Cách mạng Văn hóa nổ ra khiến tôi mất cơ hội theo đuổi con đường nghệ thuật chuyên nghiệp, lúc đó chỉ biết oán trách số phận mình.
Chuyện này kể ra ý là tôi chỉ thích có mỗi nghệ thuật, cho nên xem Thần Vận có cảm nhận khác. Thần Vận mang vẻ đẹp hoàn mỹ, đầy hào khí, thanh cao tao nhã, độc đáo đặc sắc, lại có thể đường đường chính chính nói được điều muốn nói: cứu người. Những người không tham gia diễn xuất rất khó hiểu được những gian nan đó, vì họ [những nghệ sĩ múa] phải đối mặt với con người, đối mặt với chúng sinh. Khi tôi xem trên Đài truyền hình phát sóng rộng khắp thế giới là Tân Đường Nhân, một nghệ thuật gia—ngôi sao Bắc Đẩu trong lĩnh vực nghệ thuật—bình luận về Thần Vận, tôi thực sự cảm nhận được sự thật này, thực sự xúc động từ tận đáy lòng, chứ không phải là những thứ hoa lệ được tô vẽ phô trương vốn lưu hành trong trào lưu xã hội ngày nay. Họ bội phục Thần Vận muôn phần khiến tôi hiểu rằng Thần Vận thực sự là kiệt tác hàng đầu thế giới.
Xem Thần Vận, phục sức ấy, phông nền ấy, giai điệu ấy, vũ điệu ấy, chỉ vài góc đó thôi cũng đủ để tái hiện lại từng nhân vật một cách sống động. Xem Thần Vận, tôi tự hỏi, trên phông nền màu cỏ xanh ấy, sao diễn viên mặc váy màu cỏ xanh? Sao Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, nhìn mặt không thấy giống, mà có thể nhập vai như thể đó là Tôn Ngộ Không, là Trư Bát Giới, đây chẳng phải là cái ‘thần’ trong hội họa truyền thống hay sao……
Tôi là một người tu luyện, đương nhiên không thể đàm luận về nghệ thuật trên bình diện nghệ thuật, người tu luyện phải đàm luận Đạo mà mình ngộ ra từ góc độ tu luyện.
Mở màn Thần Vận 2013, Phật Chủ hỏi: “Ai nguyện theo ta hạ thế Chính Pháp?” Tôi thấy chỉ một số ít người đi theo Phật Chủ. Chốn nhân gian mấy ai dám tới, một khi ký ức bị tẩy sạch sẽ chẳng biết gì nữa, rất dễ bị hủy tại nhân gian. Những người gan to bằng trời dám tới nhân gian chẳng phải vĩ đại lắm sao? Nếu họ có mê lạc chăng nữa, thì chẳng phải chính chúng ta phải cứu độ họ hay sao?
Hàng năm khi mở màn và kết thúc đều là dòng chữ lớn, “Khai sáng 5.000 năm văn minh”, v.v,  đây chính là giảng Pháp 5.000 năm, còn năm 2012 hàng chữ mở màn là “Khai nguyên”, đến năm 2013 thì không có [chữ] gì nữa, vở kịch lớn đã tới giai đoạn cuối cùng rồi.
Năm 2012 chính là năm cuối cùng theo an bài của cựu thế lực, các dự ngôn trong lịch sử đều không úp mở mà nói cả ngày tháng, người đời chấn động, nín thở theo dõi cái gọi là “ngày tận thế”, còn người tu luyện vẫn bất động, vì các đệ tử đã ngộ được Pháp của Sư phụ. Tiết mục cuối cùng của Thần Vận năm 2012, trong khi tà ác đang điên cuồng bức hại đệ tử Đại Pháp, thì đột nhiên sấm vang chớp giật, sóng biển cuộn dâng, bão cát chực nuốt chửng cả thành phố. Giữa lúc nguy nan Sáng Thế Chủ từ bi vĩ đại huơ tay ngăn lại, đại kiếp nạn qua đi, nhìn lại thành phố này, mọi thứ đã trở lại như cũ. Chi tiết hết thảy đều như cũ này vẫn thường bị xem nhẹ. Tất cả những điều mà tiết mục này trình diễn và mọi việc xảy ra trong năm 2012 đều rất ăn nhập với nhau. Năm 2012 quả là một năm vô cùng nguy hiểm, vô cùng đáng sợ, tuy nhiên sự từ bi của Thần Phật lại không được con người tiếp nhận, vậy thì Pháp từ bi đồng thời cũng rất uy nghiêm sẽ đo lường xem con người liệu có thể được lưu lại hay không.
Tiết mục cuối cùng của dạ hội Thần Vận năm 2013, “Sự từ bi của Thần Phật”, tình tiết đại khái giống tiết mục cuối của Thần Vận năm 2012, nhưng địa điểm thì chính xác, chính là quảng trường Thiên An Môn, trung tâm quyền lực của Trung Cộng: lại thêm một đại kiếp nạn đến, trời long đất lở, bia tưởng niệm đứt đoạn, đại lễ đường, Thiên An Môn nơi treo tượng họ Mao sụt lở, chính trong thời khắc nguy hiểm này cũng lại là Đấng Sáng Thế ra tay cứu vớt, ngăn không cho tai nạn tiếp tục hoành hành, mọi thứ lại trở lại yên tĩnh. Nhưng mọi người nhất thiết phải quan sát kỹ: tai nạn không tiếp tục hoành hành, nhưng mọi thứ trước mắt vẫn chưa được khôi phục nguyên vẹn, quảng trường Thiên An Môn vẫn là một đống đổ nát, tượng trưng cho chính quyền Trung Cộng sụp đổ, ứng với tảng đá 200 triệu năm tuổi “Trung Quốc cộng sản đảng vong”. Tiếp đến là hình ảnh những người được đắc cứu tạ ân cứu độ của Sư phụ, từ mặt đất đến thiên giới những người tu luyện đều ngồi chật kín cả. Sau khi đại kiếp qua đi, những người được đắc cứu đều tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, vở kịch lớn 5.000 năm khép lại, một kỷ nguyên mới bắt đầu.
Lời Sư phụ giảng là Pháp, việc Sư phụ làm là Pháp, con người hôm nay đều phải suy nghĩ, nếu quả thực như lời người dẫn chương trình Thần Vận năm 2012 từng nói: “Trong cuộc đọ sức chính-tà từ vạn cổ đến nay, nhân loại đều đang chờ đợi Thần Phật trở về, chỉ có ôm giữ tâm lương thiện mới có thể vượt qua nguy nan, bước vào kỷ nguyên mới”.
Thần Vận diễn tuy là kịch, nhưng đó là thiên cơ bảo cho con người, là chân tướng, là kịch thì sẽ đến lúc kết thúc, đến lúc hạ màn, là để chúng sinh đắc cứu. Sư phụ trì hoãn hết lần này đến lần khác, gánh chịu đại nạn để chúng sinh có được cơ hội lựa chọn tương lai, nhân loại cũng không thể ung dung mà đứng nhìn.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/116827
http://chanhkien.org/2013/04/khi-vo-kich-lon-5000-nam-ha-man.html

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2013


Thể ngộ của tôi về lòng trung thành

Bài viết của một đệ tử Đại Pháp ở Đại Khánh, tỉnh Hắc Long Giang
[MINH HUỆ 18-03-2013] Lòng trung thành, sự hiếu thảo, trinh tiết, và đạo đức ngay chính là những phẩm hạnh được đánh giá cao nhất trong truyền thống Trung Quốc. Văn hóa Thần truyền của Trung Quốc đã sinh ra và nuôi dưỡng nhiều bậc thánh hiền cao quý vào hầu hết các triều đại trong suốt hơn 5.000 năm lịch sử của nó.
Lấy Nhạc Phi (1103-1142) làm một ví dụ. Là một tướng quân thời Nam Tống (1127-1279), ông đã lãnh đạo quân đội của Nam Tống chống lại quân xâm lược nhà Kim của Nữ Chân ở miền Bắc Trung Quốc. Thật không may, ông đã bị những tên tham quan xu nịnh hoàng đế Nam Tống mưu hại. Bất chấp sự phản bội này, ông vẫn trung thành với hoàng đế đến tận cuối đời của mình. Ngày nay, Nhạc Phi là một biểu tượng nổi tiếng cho lòng trung thành ở Trung Quốc.
Văn Thiên Tường (1236-1283), một tể tướng trong những năm cuối của triều đại Nam Tống, là một vị anh hùng dân tộc. Trong khi chống lại quân xâm lược của Hốt Tất Liệt, ông đã bị nhà Nguyên bắt giữ. Mặc dù bị tra tấn dã man, ông không bao giờ khuất phục và vẫn trung thành với nhà Tống. “Ca khúc Liêm chính” do ông viết sau song sắt đã được phổ biến rộng rãi ngày nay. Trong một bài thơ khác, ông viết rằng: “Tất cả trai tráng đã hy sinh, nhưng lòng trung thành của ta sẽ sáng mãi trong sử sách.”
Mặt khác, những nhân vật bất trung, bất chính, tham ô, hoặc khôn khéo trong lịch sử sẽ mãi mãi bị nhớ tới như những kẻ phản diện.
Dưới sự cai trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), Trung Quốc ngày nay đã chứng kiến ​​sự suy đồi nhanh chóng về đạo đức và sự tổn thất đáng buồn của các giá trị truyền thống. Không còn ước chế câu thúc về đạo đức, con người dám làm bất cứ điều gì và nạn tham nhũng đã trở nên tràn lan. ĐCSTQ đã tạo ra một thứ văn hóa làm biến dị tâm trí con người, và các giá trị truyền thống trong quan hệ giữa người với người đã hoàn toàn bị biến mất. Lòng trung thành hay sự liêm chính không còn được nhắc đến nữa.
Những người tu luyện Đại Pháp biết rằng mục đích của văn hóa Thần truyền ở Trung Quốc là để cho phép những chúng sinh ngày nay có thể được cứu độ và tu luyện. Lòng trung thành giờ đây đã có một ý nghĩa mới vào thời điểm Đại Pháp đang được đón nhận một cách rộng rãi trên toàn thế giới.
Cuộc đàn áp chưa từng có của ĐCSTQ đối với Đại Pháp đã diễn ra hơn 13 năm, nhưng các đệ tử Đại Pháp đã nhẫn chịu được nhờ vào lòng trung thành của họ đối với Sư phụ và Đại Pháp.
Trong tu luyện thời Chính Pháp, các học viên Đại Pháp cần phải biết rõ rằng Sư phụ đang chính lại vũ trụ. Sư phụ đã phó xuất tất cả những gì mà Ngài có để cứu vũ trụ và các chúng sinh.
“Vô lượng chúng nghiệp thành cự nạn
Thanh ty ban bạch nhân thể thương” (Hoàn Nguyên, Hồng Ngâm III)
Diễn nghĩa:
“Nghiệp của vô lượng chúng sinh tạo thành nạn lớn
Tóc xanh nay ngả muối tiêu, thân thể thương tổn” (Hoàn Nguyên, Hồng Ngâm III)
Nỗi khổ và sự hy sinh mà Sư phụ đã phải chịu đựng là ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Các đệ tử Đại Pháp là các sinh mệnh được đích thân Sư phụ cứu độ. Chỉ xét đến sự tồn tại của chúng ta cũng đã đủ để thấy được lòng từ bi vĩ đại của Sư phụ là lớn đến nhường nào. Ngài là vị Phật Chủ của cả vũ trụ to lớn này và là niềm hy vọng của tất cả các chúng sinh.
Chúng ta nên nhìn nhận mối quan hệ giữa chúng ta với Sư phụ và Đại Pháp như thế nào? Với tôi, câu trả lời đó là lòng trung thành vô điều kiện vĩnh viễn với Sư phụ.
Tín Sư tín Pháp là một điều kiện tiên quyết cho sự tu luyện của chúng ta trong tiến trình Chính Pháp. Tuy nhiên, chỉ niềm tin vào Đại Pháp là vẫn chưa đủ. Sứ mệnh của chúng ta trong suốt tiến trình Chính Pháp giữa bao khổ nạn to lớn do tà ác gây ra chính xác là gì? Đó chính là duy hộ Pháp!
Vậy thì duy hộ Pháp nghĩa là gì? Tôi cho rằng đó là khi chúng ta buông bỏ tất cả các chấp trước của con người (bao gồm cả tâm sợ chết) với sự kiên định, quyết tâm như kim cương. Chúng ta phải dũng mãnh tinh tấn để trở thành những vị Thần duy hộ Pháp trong thế giới con người ngày hôm nay và của vũ trụ trong tương lai. Việc chúng ta có thể nhận ra được điều này trong sự tu luyện của chúng ta hay không có thể sẽ trở thành một khảo nghiệm nghiêm túc về tâm tính. Tất cả các vị Thần trong vũ trụ đều đang chăm chú dõi theo chúng ta.
Nếu tất cả các đệ tử Đại Pháp có thể thể hiện lòng trung thành vô điều kiện với Sư phụ, tà ác hiện còn đang bức hại Pháp sẽ bị giải thể ngay lập tức, và chúng ta sẽ tiến nhập vào vũ trụ tương lai một cách vững chắc, kiên cố bất phá.
Trung thành với Sư phụ và duy hộ Đại Pháp là trách nhiệm của các đệ tử Đại Pháp. Chúng ta đã có được may mắn khó tin là trở thành các đệ tử Đại Pháp, vậy nên tất cả chúng ta hãy cùng trân trọng cơ duyên quý giá này.
Trên đây là một số thể ngộ của tôi. Xin vui lòng chỉ ra bất cứ điều gì không phù hợp.

Đăng ngày 13-04-2013. Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Thứ Tư, 10 tháng 4, 2013


Cảnh tượng nhìn thấy khi thiền định: Đại ôn dịch đang đào thải con người

Bài viết của một đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc
[MINH HUỆ 08-02-2013] Vài ngày trước, trong khi nhập định, tôi nhìn thấy cảnh tượng con người đang bị đào thải bằng một đại ôn dịch. Một số người đi về phía tôi trên đường lớn. Họ rất hạnh phúc, đang nói cười. Đang đi thì đột nhiên có một vài người trong số họ giống như cành liễu mềm ngã xuống mặt đất, và chỉ một người duy nhất là còn đứng tại đó. Anh ấy bị choáng váng bởi điều đã xảy ra và không biết làm gì. Khi ý thức của anh ấy quay trở lại, anh vội nâng họ dậy, song họ đang nằm trên đất như một đống bùn và anh ấy không thể dịch chuyển bất kỳ ai. Khi anh ấy ngẩng đầu kêu khóc cầu xin sự giúp đỡ, bỗng nhiên anh nhìn thấy xung quanh mình đầy những xác người đã chết. Người chết ở khắp mọi nơi và anh ấy không thể nhìn thấy điểm kết. Chỉ còn lại 03 người còn sống sót khác đang đứng giữa những người đã chết. Họ ôm đầu tuyệt vọng và nhìn lên trời cầu cứu nhưng không ở đâu đáp lại. Thật là cảnh tượng vừa kinh dị vừa choáng váng! Tôi cũng bị khiếp sợ bởi những gì mình nhìn thấy.
Sau khi xuất định, tôi kể lại cho một vài đồng tu những gì mình đã nhìn thấy. Chúng tôi đều ngộ ra rằng đại đào thải sẽ sớm bắt đầu. Mỗi người sẽ đều phải đối mặt khảo nghiệm sinh tử li biệt. Các đệ tử Đại Pháp chúng ta nên học Pháp thật tốt, luyện các bài công pháp và đề cao tâm tính của mình, tận dụng thời gian khẩn cấp để giảng rõ sự thật và cứu độ nhiều chúng sinh hơn nữa.

Đăng ngày 25-02-2013; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.
http://vn.minghui.org/news/37416-canh-tuong-nhin-thay-khi-thien-dinh-dai-on-dich-dang-dao-thai-con-nguoi.html 

Thứ Ba, 9 tháng 4, 2013


Một phụ nữ bị liệt đi lại được

Bài viết của một học viên tại Trung Quốc
[MINH HUỆ 25-12-2012] Tôi bắt đầu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp vào năm 2008. Trước đó, tôi bị liệt vì thiếu máu và teo cơ. Tôi rất đau đớn và cảm thấy rằng chết còn tốt hơn. Thậm chí tôi đã muốn tự tử trong thời gian đó, nhưng Pháp Luân Đại Pháp đã cứu tôi và giúp tôi đi lại được.
Từ khi sinh em bé vào năm 1993, tôi đã bị thiếu máu, mất ngủ và tay chân bị mất lực. Năm 2003, chồng tôi qua đời, điều này ảnh hưởng xấu đến tôi. Kết quả là, bệnh của tôi trở nên xấu hơn. Tôi không muốn ăn và sống nhờ vào uống thuốc. Sau đó tôi không chỉ bị thiếu máu, mà bụng tôi còn bắt đầu xuất huyết. Tôi đã đến bệnh viện Thiên Tân để chữa trị. Kết quả kiểm tra cho thấy tôi bị thiếu máu dinh dưỡng. Tôi đã dùng nhiều thuốc nhưng không có thay đổi gì. Cuối cùng, tôi bị bệnh bạch cầu và teo cơ.
Năm 2007, cha tôi bị bệnh và phải nhập viện. Lúc đó tôi không thể đi lại được. Sau khi cha tôi qua đời, tình trạng của tôi trở nên tệ hơn. Anh chồng tôi (người đã chăm lo rất nhiều cho mẹ con tôi sau khi chồng tôi qua đời) nói với mẹ chồng tôi: “Chúng ta phải đưa cô ấy đến bệnh viện.” Mẹ chồng tôi hỏi: “Chúng ta có thể đưa đi chữa trị ở đâu?” Anh ấy trả lời: “Hãy đến Bệnh viện Đại học Y Hiệp Hòa Bắc Kinh!” Khi chúng tôi đến đó, bác sĩ quyết định thực hiện một cuộc kiểm tra tổng quát cho tôi. Tôi không thể ăn uống gì sau khi thức dậy vào buổi sáng. Họ đã đưa cho tôi một bát ngũ cốc trắng. Khi tôi cố gắng ăn nó, tôi đã nôn ra. Bác sĩ nói: “Cô phải ăn gì đó; nếu không, cô không thể làm xét nghiệm được.” Vì tôi không thể ăn gì cả, bác sĩ nói: “Nếu không, chúng tôi sẽ lấy tủy của cô để xét nghiệm.” Sau khi xét nghiệm tủy, họ vẫn không thể chẩn đoán được căn bệnh của tôi. Thậm chí tệ hơn là tôi đã bị liệt.
Sau khi trở về nhà, mẹ chồng tôi đã chăm sóc cho tôi từ việc ăn, uống đến đổ nước tiểu và phân. Sống cách này khiến tôi lo lắng vô cùng. Tôi nghĩ: “Cuộc đời mình kết thúc như thế này sao? Đời mình có nghĩa gì nếu tiếp tục sống như thế này? Mình chỉ mang lại thêm gánh nặng và phiền phức cho người khác. Chết vẫn còn tốt hơn.” Tuy nhiên, mỗi khi nghĩ đến con trai 10 tuổi của mình, tôi cảm thấy hết sức đau khổ. Con trai tôi còn rất nhỏ, và cha cháu đã qua đời. Nếu tôi chết đi, cháu sẽ mất cả cha mẹ và trở thành trẻ mồ côi.
Tôi rất khổ sở trong khoảng thời gian đó. Tôi muốn sống, nhưng không thể sống tốt; tôi muốn chết nhưng không thể chết. Mỗi ngày tôi phải chịu đựng đau khổ và rất chán nản. Mẹ chồng tôi đã khích lệ tôi: “Mạnh mẽ lên. Con phải tiếp tục sống vì con trai. Cháu không thể mất cả cha lẫn mẹ. Chúng ta phải tìm phương pháp chữa lành bệnh của con.” Bà đã thảo luận với anh chồng tôi và quyết định đưa tôi đến Bệnh viện Huyết học Lang Phường. Họ đã thuê một y tá đặc biệt cho tôi. Mẹ chồng tôi cách một ngày lại đến thăm tôi. Các bệnh nhân cùng phòng nói: “Mẹ chồng cô đối xử với cô thật tốt.” Tôi nói: “Bà ấy là một học viên Pháp Luân Công.” Họ hỏi: “Tại sao cô không cùng tập Pháp Luân Công với mẹ chồng sau khi trở về nhà?”
Tôi ở trong bệnh viện một tháng và tiêu tốn rất nhiều tiền, nhưng không cảm thấy tốt hơn. Tôi nghĩ: “Các bác sĩ ở đây không thể chữa lành bệnh của mình, vậy nên chúng ta đã tiêu tốn tiền bạc và công sức vô ích.”  Ngày hôm sau, tôi gọi cho mẹ chồng và nói rằng tôi muốn trở về nhà. Ban đầu bà không đồng ý, nhưng sau đó vì thấy tôi rất kiên quyết nên đã chấp thuận. Chúng tôi đã mua nhiều thuốc khi ra khỏi bệnh viện. Lúc đó, tình trạng của tôi rất khủng khiếp, đặc biệt là ở hai chân. Chân phải của tôi bị teo cơ nghiêm trọng đến nỗi nó gầy nhom và không còn cơ bắp nữa. Tôi hoàn toàn không thể đi lại hay di chuyển.
Sau khi về nhà, tôi không thể làm gì với bệnh tật của mình. Tôi có thể tìm được một phương pháp chữa trị ở đâu? Tôi không thể làm gì ngoài việc chờ chết. Nhà của chúng tôi là nơi học Pháp nhóm. Khi các học viên Đại Pháp học Pháp cùng nhau, mẹ chồng tôi bảo tôi lắng nghe họ. Lúc đầu tôi nghe Pháp không vào. Mọi người đều thoải mái đi lại, nhưng tôi không thể dù còn rất trẻ. Tôi phải làm gì vào những ngày tới? Tôi than phiền với trời đất: “Tại sao ông Trời đối xử với tôi như vậy?”
Một ngày kia tôi đột nhiên nhớ lại điều mà các bệnh nhân cùng phòng nói: “Tại sao cô không cùng tập Pháp Luân Công với mẹ chồng sau khi trở về nhà?” Đúng! Tôi phải tu luyện! Tôi phải sống. Chỉ có Đại Pháp có thể cứu tôi. Ngay khi có suy nghĩ như vậy, tôi cảm thấy rất phấn khởi. Dường như tôi đã tìm thấy một tia sáng trong bóng tối. Tôi đã tìm thấy hy vọng trong tuyệt vọng. Tôi nói với mẹ chồng: “Hãy hướng dẫn con luyện công. Con cũng muốn học Đại Pháp.” Bà nói: “Sư phụ đã giảng: “[Đối với] người bệnh rất nặng, chúng tôi không cho phép đến lớp; bởi vì người ấy không thể vứt bỏ được cái tâm trị bệnh ấy, không thể vứt bỏ được suy nghĩ về bệnh.” (Bài giảng thứ nhất, Chuyển Pháp Luân) Hôm nay con đã thực tâm bày tỏ ước nguyện muốn tu luyện. Miễn là con theo các nguyên lý của Đại Pháp, Sư phụ sẽ chăm sóc con.”
Kể từ đó, mẹ chồng tôi hướng dẫn tôi luyện công. Tôi không thể đứng được, nên tôi luyện công trong tư thế ngồi. Tôi nghe các bài giảng Pháp của Sư phụ mỗi ngày và tham gia nhóm học Pháp. Vào một buổi sáng khoảng mười ngày sau đó, tôi có thể đứng dậy được nhờ sự hỗ trợ của một cái ghế. Tôi hét lên trong niềm vui: “Mẹ, hãy đến đây, con có thể đứng dậy này!” Mẹ tôi đã đưa cho tôi một cây gậy. Tôi cố bước đi chầm chậm cùng với cây gậy. Từng bước một, tôi có thể đi lại được! Nhà chúng tôi có sáu phòng. Tôi đi từ phòng đầu tiên đến phòng cuối cùng. Tôi bỏ cây gậy và đi ngược trở lại. Tôi rất hạnh phúc vì mình có thể đi tới đi lui được.
Tôi vui mừng khôn xiết. Tôi và mẹ chồng mừng rơi nước mắt. Chúng tôi biết rằng Sư phụ từ bi vĩ đại đã cứu tôi, và Đại Pháp giúp tôi đứng lại được!
Tôi dần dần hồi phục và những cơ thịt mới ở chân tôi phát triển. Sư phụ không chỉ cứu tôi, mà còn giải thoát cả gia đình tôi! Sau khi người thân và bạn bè biết những việc xảy ra với tôi, họ đều đến thăm tôi. Tôi đã kể với họ những trải nghiệm của mình. Tất cả họ đều tin rằng Đại Pháp là huyền diệu. Họ cũng biết rằng Đại Pháp là tốt. Nhiều người trong số họ đã thoái xuất khỏi ĐCSTQ và bắt đầu chân thành nói “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân – Thiện – Nhẫn hảo.”
Tôi trở lại nhà máy làm việc. Tôi đã kể câu chuyện của mình với quản lý nhà máy và các công nhân. Họ đều rất cảm động và nói: “Chà, Pháp Luân Đại Pháp thật sự tốt và kỳ diệu!” Quản lý nhà máy nói: “Tất cả hãy nói Pháp Luân Đại Pháp hảo.” Một số công nhân đã hỏi xin tôi các sách của Đại Pháp. Tôi không bao giờ tranh giành lợi ích cá nhân trong nhà máy và làm mọi việc mà ông chủ phân công. Người quản lý và tất cả công nhân đều nói: “Hãy nhìn cô ấy! Cô ấy làm mọi việc được phân công. Không nghi ngờ gì nữa, cô ấy là một học viên Pháp Luân Công! Nếu chúng ta muốn làm người tốt, tất cả phải học từ cô ấy. Hãy làm tất cả công việc được phân công. Được không?” Mọi người trả lời đồng thanh: “Được!” Trước kia, cãi vã luôn xảy ra giữa các công nhân trong nhà máy vì sự phân công việc làm không công bằng. Từ đó, cãi vã không còn xảy ra nữa. Mọi người đều tốt với nhau. Toàn bộ nhà máy đã thay đổi.
Người quản lý hỗ trợ tôi rất nhiều trong việc giảng chân tướng. Mỗi tuần tôi đều mang tài liệu giảng chân tướng Pháp Luân Công đến nhà máy và phân phát cho các công nhân ở đó. Mỗi cửa hàng làm việc được trang trí bằng một tấm lịch giảng chân tướng. Khi tài liệu giảng chân tướng tiết lộ bản chất thật sự của ĐCSTQ tà ác đã được chuẩn bị xong, tôi đưa chúng đến nhà máy và nói với mọi người: “Hãy đến và xem này! ĐCSTQ là một tà giáo.” Người quản lý nói: “Tất cả hãy ngừng làm việc và lắng nghe cô ấy đọc. Mọi người hãy đến nghe.” Sau khi họ nghe tôi đọc, tất cả đều biết ĐCSTQ là gì. Họ nói: “Chà, ĐCSTQ là một tà giáo!” Hầu hết họ đều thoái xuất khỏi ĐCSTQ và các tổ chức liên đới của nó sau khi biết sự thật. Quản lý nhà máy nói: “Lợi nhuận kinh tế của nhà máy chúng ta trong năm nay rất tốt. Tôi cũng được hưởng lợi từ Đại Pháp. Một số người nợ tiền tôi hơn chục năm qua đã trả lại trong năm nay mà không cần tôi yêu cầu. Tôi đã nghĩ rằng họ sẽ không trả lại cho tôi. Đây là sự may mắn của tôi sau khi tin vào Đại Pháp. Tôi sẽ ủng hộ Đại Pháp mãi mãi.”
Tôi sẽ tiếp tục trở thành một người tốt, người tốt hơn nữa và cứu nhiều người hơn. Tôi sẽ không làm thất vọng sự cứu độ từ bi của Sư phụ. Tôi sẽ tôn trọng lời thệ ước tiền sử và trở thành một đệ tử chân chính của Sư phụ.

Đăng ngày 10-04-2013. Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Bệnh nan y được chữa khỏi sau bốn ngày tập luyện Pháp Luân Đại Pháp

Bài viết của một học viên ở Trung Quốc
[MINH HUỆ 28-12-2012] Tôi là một phụ nữ 67 tuổi và đã tu luyện Pháp Luân Đại Pháp được 13 năm. Câu chuyện dưới đây là một minh chứng sống cho sự vĩ đại của Sư phụ của chúng ta.
Vào tháng 03 năm 1999, con gái 27 tuổi của tôi được chuẩn đoán bị hoại tử vô mạch, một căn bệnh nan y phá hủy các đầu xương đùi. Cháu phải dùng hai cái nạng để đi lại nhưng hầu hết thời gian cháu đều cần được dìu. Khi không có ai, cháu phải bò từ phòng này sang phòng khác. Các bệnh viện mà chúng tôi đưa cháu đến đều nói rằng họ không thể làm được gì cho cháu. Chúng tôi thậm chí đã bán nhà để có tiền chữa trị. Tuy nhiên, cuối cùng chúng tôi được bảo rằng chúng tôi đã hao phí cả thời gian và tiền bạc vì tình trạng của cháu là vô vọng.
Khi nhìn đứa con gái tàn tật đang ngồi với đứa con sáu tuổi của nó, tôi cảm thấy thật kinh khủng và tôi đã khóc mỗi ngày. Tôi phải giúp cháu làm mọi việc, từ lấy nước uống cho đến giúp cháu vệ sinh. Khi cháu chịu thống khổ, tôi không thể chịu được khi nhìn cháu. Tôi cảm thấy bất lực và chán nản.
Khi người mẹ 80 tuổi của tôi nghe thấy tình trạng này, bà lập tức giới thiệu Pháp Luân Công cho con gái tôi. Mặc dù không tin môn tu luyện tinh thần này có thể chữa được căn bệnh của con gái tôi, nhưng tuy vậy tôi đã khích lệ cháu tập thử.
Bốn ngày sau, chúng tôi đã chứng kiến một phép lạ. Con gái tôi có thể đi lại, không cần giúp đỡ, và thậm chí có thể chạy được! Cháu không cần dùng nạng nữa và cũng không bị đau chân. Cháu có thể đi lại được như một người bình thường! Gia đình tôi và tôi không thể tin vào mắt mình. Chúng tôi hô lên: “Pháp Luân Đại Pháp thật siêu thường! Đây không phải là môn khí công thông thường. Đây là chân Phật hạ thế!”
Từ ngày hôm đó, cả gia đình tôi bắt đầu tu luyện Pháp Luân Công. Khi những người dân làng nhìn thấy con gái tôi đi lại, 30 người đã đến nhà tôi và bắt đầu tu luyện Pháp Luân Công!

Đăng ngày 09-04-2013. Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Suy nghĩ của tôi về việc “Chứng thực”

Bài viết của một học viên Pháp Luân Đại Pháp ở Trung Quốc
[MINH HUỆ 19-01-2013] Tôi đã ngộ ra một hàm nghĩa sâu sắc hơn của từ “chứng thực” mà các đồng tu thường nhắc đến. Tôi muốn được chia sẻ thể ngộ của mình với tất cả mọi người. Các bạn đồng tu, xin vui lòng chỉ ra bất cứ điều gì không phù hợp.
Con đường Chính Pháp của vũ trụ là một con đường mới. Nó là cuộc sống mới của vũ trụ cũ. Nó là con đường cho phép chúng ta hoàn thành thệ ước và cứu độ chúng sinh. Nó cũng là con đường mà Sư phụ tôn kính của chúng ta đã tạo ra cho tất cả chúng sinh. Trong thời điểm này, chúng ta nên làm gì? Chúng ta nên loại bỏ can nhiễu từ cựu thế lực như thế nào? Chúng ta đang để lại điều gì cho chúng sinh tương lai? Chúng ta phải làm gì? Rất nhiều, rất nhiều hàm nghĩa chứa đựng trong từ “chứng thực”.
Tất cả mọi thứ là do Sư phụ ban cho chúng ta, bao gồm cả những gì chúng ta không thể nhìn thấy và những gì chúng ta có thể quan sát, chẳng hạn như sự cải thiện rõ rệt về thể chất và tinh thần. Trong suốt tiến trình lịch sử của vũ trụ, chúng ta đã đi theo Sư phụ, và giáng hạ xuống từng tầng từng tầng một. Sư phụ đã bảo hộ cho chúng ta để chúng ta có thể đến thế giới này. Chúng ta đã đi theo Sư phụ để thiết lập nền văn hoá thần truyền cho nhân loại. Sư phụ đã an bài một cách tỉ mỉ và hoàn hảo cho những sinh mệnh có tiền duyên với chúng ta, để chúng ta có thể cứu họ. Bởi vì cựu thế lực cố gắng tiêu diệt chúng ta, chúng ta có thể cảm nhận được chúng, nhưng chúng ta không thật sự hiểu được mức độ tổn hại mà Sư phụ đã phải gánh chịu cho chúng ta.
Sư phụ mang những người có tiền duyên đến cho chúng ta, chờ đợi chúng ta cứu họ, cho chúng ta những điểm hóa. Khi chúng ta ngần ngại và thậm chí cảm thấy thất vọng, Sư phụ mang đến cho chúng ta sự ấm áp, niềm tin, sự giác ngộ, và khích lệ chúng ta theo cách mà chúng ta có thể tiếp thu được một cách tốt nhất. Đối với những người đi chệch hướng, Sư phụ vớt họ lên từ địa ngục, và cho họ cơ hội có một cuộc sống mới. Không có từ ngữ nào có thể diễn tả được hết lòng biết ơn của chúng ta đối với Sư phụ. Đứng trước hồng ân của Phật Chủ vĩ đại, là những đệ tử trong thời kỳ Chính Pháp, chúng ta nên làm gì?
Chúng ta phải xứng đáng với ý nghĩa thiêng liêng của từ “chứng thực” trong những suy nghĩ thuần khiết của chúng ta, trong việc tu luyện của chúng ta, trong từng ngôn từ và hành động của chúng ta. Chúng ta đang chứng minh điều gì? Chúng ta đang chứng minh tiêu chuẩn của cảnh giới mà chúng ta đã đạt được trong vũ trụ này. Chúng ta chứng minh rằng chúng ta là những sinh mệnh xứng đáng được tồn tại trong thời kỳ Chính Pháp. Chúng ta chứng minh rằng chúng ta đến là để cứu độ chúng sinh. Đó chẳng phải là chúng ta đang chứng minh giá trị của chính mình sao? Tầng thứ nào của Pháp có thể cộng hưởng với tất cả mọi thứ mà bạn đã làm và với mọi suy nghĩ mà bạn có? Bạn đã đạt tiêu chuẩn của Pháp chưa?
Đối diện với những người có tiền duyên đã được an bài để đến gặp chúng ta, chúng ta phải loại bỏ tâm hiển thị. Nếu không, chúng ta có thể khơi dậy chấp trước của người đó. Khi đó, người ấy có thể sẽ không chấp nhận sự thật hoặc không nghĩ rằng Đại Pháp là tốt. Và khi ấy chúng ta sẽ không thể cứu họ. Hành động và tâm tính của chúng ta lúc đó đã không đạt tiêu chuẩn của Pháp để cứu người đó.
Đôi khi, chúng ta cần phải loại bỏ tâm oán giận. Nếu chúng ta không làm như vậy thì tâm oán giận có thể đẩy người này ra xa. Họ có thể từ chối sự giúp đỡ của chúng ta và thậm chí từ chối cả sự giúp đỡ của những học viên khác.
Đôi khi, chúng ta cần phải loại bỏ tâm hoan hỷ. Những hành vi cực đoan có thể làm rối loạn suy nghĩ của con người. Họ sẽ nghĩ rằng bạn “bất thường”, và hình ảnh của Đại Pháp có thể bị tổn hại. Tất cả chúng ta đều biết rằng chúng ta không thể cứu người nếu chúng ta không đạt tiêu chuẩn. Đôi khi, thậm chí những sinh mệnh không thể được cứu cũng được Sư phụ an bài tiếp cận chúng ta để giúp chúng ta loại bỏ những chấp trước của mình và thông qua khổ nạn mà đề cao. Chính Pháp càng tiến về phía trước, chúng ta càng có thể cứu độ thêm nhiều chúng sinh. Sự an bài này là chuẩn xác phi thường. Chúng ta không thể tưởng tượng được tất cả những khả năng phía sau nó. Biểu hiện của chúng ta ở bất cứ thời điểm nào trong Chính Pháp đều có thể kết nối đến những không gian vô tận trong vũ trụ bao la này. Nó liên quan đến vô lượng chúng sinh trong vũ trụ.
Tôi là một trong những học viên đã đi đường vòng trong một thời gian dài. Đôi khi tôi rất buồn bởi vì tôi đã từng lạc mất con đường chân chính mà Sư phụ an bài cho mình. Hiện tại, tôi phải tinh tấn hơn và tăng cường chính niệm để đạt được các yêu cầu của từng tầng mới. Mỗi suy nghĩ và hành động thuần khiết của các đệ tử đều chứa đựng Pháp trong đó, và có liên quan đến những triển vọng trong tương lai. Nó cũng bao gồm những yêu cầu tại cảnh giới của chúng ta, điều đã được thiết lập trong từng tầng không gian.
Xét về tu luyện, trong qua khứ tu luyện là như thế nào? Trong lịch sử, một phần cuộc sống của chúng ta đã được chứng thực, hoặc gây được tiếng vang lớn ở tầng thứ phù hợp với sự tu luyện tồn tại khi ấy. Chúng đã xây dựng nền tảng của sự tu luyện cho con người ngày nay và để lại sự khôn ngoan, những ví dụ và các bài học để cứu người. Tuy nhiên, “chứng thực” đó không giống với “chứng thực”của chúng ta ngày nay. Con đường tu luyện vĩ đại của các đệ tử Đại Pháp trong Chính Pháp ngày nay là thật sự tu luyện bản thân chúng ta, điều này là chưa từng có tiền lệ trong quá khứ.
Những đệ tử đang tu luyện rất tốt và có chính niệm mạnh đã để lại các hình mẫu tham chiếu cho tương lai. Những đệ tử nào đi chệnh hướng vẫn có thể làm tốt lại từ đầu và có cơ hội quay lại tiến trình Chính Pháp. Khi các đệ tử Đại Pháp gặp phải khổ nạn, họ có thể sử dụng khả năng của mình để tiêu diệt ma quỷ và phủ nhận tà ác.
Chúng ta đừng tách ly bản thân với thế tục. Chúng ta vẫn có thể tu luyện trong xã hội người thường, có gia đình và công việc. Thậm chí khi chúng ta gần đến viên mãn, chúng ta vẫn sẽ làm những việc bình thường nhất giống như người thường. Tất cả những việc này đều được khai sáng bởi Sư phụ, Ngài yêu cầu chúng ta tu luyện và để lại con đường tu luyện cho chúng sinh tương lai. Đây cũng là yêu cầu của vũ trụ mới. Làm sao chúng ta có thể không làm tốt? Nếu chúng ta không làm tốt, làm sao chúng ta có thể thật sự hiểu được nội hàm của Pháp? Chúng ta chỉ có thể chứng thực Pháp với hành động cụ thể từ những suy nghĩ thuần khiết và thực sự đóng đúng vai trò của chúng ta trong Chính Pháp.
Sau khi ngộ ra điều này, tôi không nhắc đến từ “chứng thực” một cách tùy tiện nữa. Nó không phải là điều mà tôi từng hiểu trong quá khứ. Tôi hy vọng tất cả các đồng tu sẽ bước đi thật tốt trong giai đoạn cuối cùng này, để xứng đáng với con đường của mình và với việc chứng thực Pháp.

Đăng ngày 10-04-2013. Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.