Trang

Thứ Tư, 10 tháng 7, 2019

Những dấu chân in trên hóa thạch bọ ba thùy



[Chanhkien.org]
Có thể nhiều người đã nghe nói đến “văn hoá tiền sử”, cũng gọi là “văn minh tiền sử”; chúng tôi chính là giảng về văn minh tiền sử đó. […] Trên thế giới, các nhà khảo cổ học đã phát hiện một loài sinh vật, mang tên “bọ ba thuỳ”; nó là sinh vật có từ sáu trăm triệu đến hai trăm sáu mươi triệu năm trước đây; còn từ hai trăm sáu mươi triệu năm trước cho đến nay nó không có nữa. Một khoa học gia của Mỹ đã phát hiện một khối hoá thạch bọ ba thuỳ; mà đồng thời trên mặt khối hoá thạch còn có dấu chân một người đang đi giày đạp lên, in rõ mồn một ở mặt trên. Điều ấy chẳng phải là chế nhạo những nhà lịch sử học là gì? Cứ chiểu theo thuyết tiến hoá của Đác-uyn, vào hai trăm sáu mươi triệu năm trước lẽ nào đã có con người được?” («Chuyển Pháp Luân», Sư phụ Lý Hồng Chí)
Dấu chân hóa thạch mà có lẽ là cổ xưa nhất đã được phát hiện vào tháng 6 năm 1968 bởi William J. Meister, một nhà sưu tập hóa thạch nghiệp dư. Đây là dấu chân mà có vẻ như của một người đi giày đạp lên một con bọ ba thùy—có thể được thực hiện từ 300-600 triệu năm trước, và dường như làm đảo lộn tất cả quan niệm được chấp nhận hiện nay về tiến hóa địa chất. Nếu không, người ta chỉ có thể lý giải rằng đây là một động vật hai chân đi giày đã một lần viếng thăm Trái đất từ một thế giới khác.
Meister đã thực hiện khám phá gây chấn động này trong một cuộc thám hiểm tìm kiếm hóa thạch ở Antelope Spring, cách Delta, Utah 43 dặm về phía Tây. Ông đi cùng vợ và hai con gái, và cùng với hai vợ chồng Francis Shape và hai cô con gái họ. Đoàn thám hiểm đã tìm thấy một vài hóa thạch bọ ba thùy khi Meister tách mở một phiến đá dày 2 inch bằng búa và phát hiện được dấu chân. Tảng đá đã tách mở ‘như một cuốn sách’ và tiết lộ:
Ở một mặt là dấu chân người với những con bọ ba thùy ở ngay bên dưới. Nửa kia của tảng đá cho thấy một khuôn gần như hoàn hảo của dấu chân và các hóa thạch. Thật đáng kinh ngạc, người đó đang đi một chiếc dép!
Dấu chân tiền sử trên khối hóa thạch bọ ba thùy.
Bọ ba thùy là động vật không xương sống cỡ nhỏ sống ở đại dương, có họ hàng với tôm và cua; chúng phát triển mạnh khoảng 320 triệu năm trước đây trước khi tuyệt chủng vào 280 triệu năm trước. Hiện tại, người ta cho rằng con người thoát thai từ 1-2 triệu năm trước và biết đi vật lót chân từ không quá vài ngàn năm trước.
Chiếc dép dường như đã đạp lên con bọ ba thùy dài 101/4 inch và rộng 31/2 inch; phần gót hơi lõm hơn phần đế, đúng như dấu giày mà một người nên có. Meister đã đưa tảng đá tới Melvin Cook, một giáo sư luyện kim tại Đại học Utah, người khuyên ông trình mẫu vật này cho các nhà địa chất của đại học. Khi Meister không thể tìm được một nhà địa chất sẵn sàng kiểm tra dấu chân, ông đã tới một tờ báo địa phương, The Deseret News. Không lâu sau, phát hiện đã được công bố rộng rãi trên toàn quốc.
Trong một cuộc họp báo sau đó, người quản lý Bảo tàng Khoa học Trái đất tại Đại học Utah, James Madsen nói: “Không có con người từ 600 triệu năm trước đây. Khỉ, gấu hay con lười cũng không thể làm giả dấu chân người. Điều gì liên quan đến con người dường như đã đặt chân lên hành tinh này thậm chí trước khi động vật có xương sống tiến hóa?”
Madsen tiếp tục nói rằng hóa thạch phải được hình thành bởi một quá trình tự nhiên, mặc dù ông không thể đưa ra giả thuyết nào. Tiến sĩ Jesse Jennings thuộc Khoa Nhân loại học của trường phỏng đoán rằng dấu chân có thể đã được hình thành bởi một con bọ ba thùy lớn nằm nghỉ trên ba con nhỏ hơn. Mặc dù khá táo bạo, phán đoán này được coi là thiếu những bằng chứng hình học ủng hộ.
Ngày 20 tháng 7 năm 1968, địa điểm Antelope Spring đã được khảo sát bởi Tiến sĩ Clifford Burdick, một nhà địa chất cố vấn đến từ Tucson, Arizona, người đã sớm bị ấn tượng bởi một dấu chân trẻ em in trên một phiến đá phiền sét. “Sự ấn tượng”, ông nói, “dài khoảng 6 inch, với ngón chân dạng ra, như thể đứa trẻ chưa từng đi giày, và cảm thấy chật ngón chân. Nó không giống hình vòm lắm, và ngón cái không nổi bật.” Dấu chân được đưa tới hai nhà địa chất và một nhà cổ sinh vật học. Một nhà địa chất đồng ý rằng nó dường như là của một người, nhưng ý kiến của nhà cổ sinh vật học là không có tác nhân sinh vật nào liên quan. Tiến sĩ Burdick nói:
“Tảng đá đột nhiên bị vỡ dọc theo phần trước những ngón chân trước khi dấu chân hóa thạch được tìm thấy. Ở vùng giao nhau, mặt phiến đá như được cán mỏng và rất phẳng. Nơi ngón chân ấn xuống vật liệu mềm, mặt phẳng bị gồ lên theo chiều ngang, cho thấy một sức nặng đã nhấn vào bùn.”
Tháng 8 năm 1968, ông Dean Bitter, một nhà sư phạm trong hệ thống trường công lập thành phố Salt Lake tuyên bố đã phát hiện thêm hai dấu giày hoặc dép ở khu vực Antelope Spring. Theo Giáo sư Cook, không con bọ ba thùy nào đã bị thương bởi những cú dẫm này, nhưng một con bọ ba thùy nhỏ đã được tìm thấy gần các dấu chân trong cùng một tảng đá, cho thấy sinh vật biển nhỏ bé và người đi dép lang thang có thể đã sống cùng một thời điểm.
Tham khảo:
“Những bí ẩn không thể giải thích”, 37-38, 1985.
Dịch từ:

Bí ẩn của lịch sử Trái Đất mà tôi được biết (1): Nền văn minh Atlantis vĩ đại huy hoàng



Tác giả: Đạo Minh 
[ChanhKien.org]
Dẫn nhậpThuận theo tiến trình Chính Pháp không ngừng tiến đến không gian bề mặt và sự liên tục đề cao tâm tính, đồng hóa với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn, trí huệ và năng lực mà Đại Pháp cấp cho tôi cũng càng ngày càng mạnh mẽ hơn. Đại Pháp cũng đã triển hiện những chân tướng tại các tầng vũ trụ khác nhau tương ứng với cảnh giới tu luyện của tôi, bao gồm cả những bí ẩn trong lịch sử của Trái Đất. Nay xin viết ra để các đồng tu cùng tham khảo.
Trên lục địa Atlantis đã từng xuất hiện những nền văn minh vô cùng rực rỡ. Bản khối đại lục này đã tồn tại hàng triệu năm, trong quá trình đó vô số nền văn minh đã lần lượt đến rồi đi. Ở đây tôi xin kể về giai đoạn lịch sử huy hoàng nhất của Atlantis cách đây hơn 10.000 năm, đó là thời kỳ của Thần Apollo vĩ đại. Sở dĩ gọi đó là “thời kỳ của Thần Apollo” bởi vì Thần Apollo đã chuyển thế, truyền Pháp tại thế gian rồi sáng lập ra nền vương triều vĩ đại này (cũng giống như thời kỳ văn minh lần này do Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp và khai sáng). Ông chuyển sinh là một người văn võ song toàn, dũng mãnh, thiện chiến, hành sự thuận theo thiên ý, ông đã đánh bại tất cả những bộ lạc tà giáo, thống nhất toàn bộ đại lục này và trở thành vị Giáo hoàng đầu tiên. Vì ông là người truyền đạo, nên toàn bộ dân chúng thời đó đều tín ngưỡng Thần Apollo.
Vương triều do Thần Apollo khai sáng là một vương triều kết hợp chính trị và tôn giáo, dùng tôn giáo thay thế chính quyền, thời kỳ huy hoàng này kéo dài liên tục 20 đời vua. Mỗi đời vua đều tự xưng mình là con của Thần Apollo, là dòng dõi của Thần. Khoa học kỹ thuật của họ hoàn toàn khác so với ngày nay, họ nghiên cứu nhắm thẳng vào khoa học thân thể người, chú trọng thiên nhân hợp nhất, giữ gìn nền văn hóa thần truyền chính thống. Tiếp theo tôi sẽ miêu tả một vài phương diện về thời kỳ này của Thần Apollo.
Dân tộc của họ có tên là Anaye (nghĩa là dân tộc mang dòng dõi của Thần), ngôn ngữ được dùng là tiếng Phạn cổ (Sanskrit), ngoại hình của họ giống người phương tây da trắng, tóc màu bạch kim hoặc vàng sậm. Hình tượng nam rất tuấn tú và lực lưỡng, hình tượng nữ thì mỹ lệ, đoan trang (để dễ hình dung, họ trông giống như người Ukraine và Belarus ngày nay). Trang phục chủ yếu là áo dài màu trắng hoặc vàng. Hoa hồ đào được chọn làm quốc hoa. Kiến trúc đô thị tương tự như phong cách kiến trúc của tây phương cổ đại. Những cung điện được xây bằng đá xám rất hùng vĩ, tráng lệ, và trên tường được chạm khắc những hình vẽ kể về các câu chuyện thần thoại và những vị anh hùng, những hình khắc cực kỳ tinh xảo và đẹp. Mỗi khu vực được biểu trưng bởi những tòa tháp hình khối cao 100 mét. Còn ở thành phố lớn thì những tòa tháp biểu trưng này có thể cao đến 200 mét, có các đạo sĩ tu luyện ở trên đỉnh tháp. Những tòa tháp này còn được dùng để quan sát thiên văn và tổ chức các nghi lễ tôn giáo lớn. Thời đại của Thần Apollo là thời kỳ cực thịnh của nền văn hóa thần truyền chính thống của người da trắng phương tây. Các lục địa khác đều phái sứ giả đến đại lục Atlantis để học tập những công nghệ tiên tiến của xứ sở này. Thương nhân từ khắp nơi cũng thường xuyên lui tới để mua những món đồ thủ công tinh mỹ nhất, vải vóc, kỹ thuật y tế cùng với rất nhiều loại dược phẩm khác nhau, các chủng loại động thực vật v.v. để mang về đất nước của họ. Tuy nhiên một hiện tượng thú vị là các loài động thực vật thần kỳ ấy khi mang sang vùng khác chỉ duy trì được một thế hệ, bởi vì không có thần lực gia trì cũng như thổ nhưỡng đặc thù, nên những thế hệ động thực vật được sinh ra sau sẽ trở về kích thước ban đầu.
Quân đội vào thời của Thần Apollo rất hùng mạnh, họ chủ yếu vận dụng pháp thuật để tiêu diệt quân phiến loạn hoặc tà giáo. Khi hai phe chuẩn bị giao tranh, đầu tiên họ sẽ mời một vị trưởng lão có pháp lực cao cường nhất trong tôn giáo đến để tiêu diệt những nhân tố tà linh của tà giáo ở không gian khác đang khống chế đối phương gây chiến tranh, làm tê liệt tư tưởng của quân đội đối phương. Sau đó triệu tập những thần thú ở những cảnh giới khác nhau, bao gồm cả rồng biết phun lửa, để tiêu diệt đạo quân của phe địch đối ứng ở không gian khác, khiến cho thân thể của họ ở không gian khác bị tổn thương, biểu hiện ở không gian vật chất là mất khả năng chiến đấu. Cuối cùng, những kỵ sĩ thánh chiến theo lệnh xuất binh đánh một trận là quét sạch hết thảy quân địch. Bộ binh đã như thế, ngay cả hải quân của họ cũng bất bại. Chiến thuyền của Apollo tung hoành khắp các đại lục, đi đến đâu nơi đó đều phủ phục quy hàng.
Các vương triều trong thời đại của Apollo đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đến kinh tế toàn thế giới, bởi vì đây là văn hóa Thần truyền chân chính, nên từ các ngành nghề trong xã hội, trí huệ và kỹ năng của con người, cho đến các loài động thực vật đều được Thần lực gia trì trở nên vô cùng phát triển và tốt đẹp. Hạt gạo rất to, mỗi củ khoai tây nặng hơn 2 kg, ngựa có kích thước gấp đôi ngựa ngày nay. Trâu bò nặng 900 kg. Tơ lụa của họ vô cùng nhẹ, mềm mại và thanh tú, kiểu dáng đa dạng, màu sắc diễm lệ. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ được chế tác rất tinh xảo, độc nhất vô nhị và chứa đựng nền văn hóa thần truyền. Mỗi sản phẩm đều là một tác phẩm nghệ thuật để đời.
Về y học, đan dược do các đạo sĩ luyện xuất ra được bán trên khắp các đại lục, trị được rất nhiều bệnh nan y. Người Atlantis có tiêu chuẩn đạo đức rất cao, nhờ ảnh hưởng của tôn giáo, quan hệ giữa người với người rất hài hòa, bởi vì toàn dân đều có tín ngưỡng nên họ đều đối đãi với tất cả mọi người như người nhà của mình, họ cố gắng làm ra những sản phẩm tốt nhất để cho người khác sử dụng, còn bản thân thì dùng những sản phẩm bị lỗi. Tất cả mọi người đều hành xử vô tư như thế.
Về thương mại, ngoài các giao dịch tiền tệ, họ còn trao đổi hàng hóa. Những thuyền buôn lớn của vương triều Apollo đều được hộ thống bởi các kỵ sĩ thánh chiến, họ giao thương bằng đường biển trên toàn cầu. Tất cả của cải thuộc sở hữu của quốc gia, được dùng làm phúc lợi xã hội phân phối cho người dân trong nước.
Ở phương diện hôn nhân, họ chú trọng huyết thống thuần chủng, không cho phép cưới người ngoại tộc. Giai cấp quý tộc thường tổ chức hôn sự cho người giai tầng thấp. Phụ nữ ở Atlantis hội tụ các yếu tố về trí huệ, nhan sắc và đạo đức cao thượng. Họ là sự lựa chọn số một của các bậc quân vương, hoàng tộc trên khắp thế giới. Về phương diện bồi dưỡng thế hệ tương lai, mỗi đứa trẻ khi sinh ra đều được đạo sĩ cao cấp ở địa khu đó bốc quẻ xem số mệnh, dựa theo sự an bài của Thần mà hoạch định ra đường đời cho đứa trẻ. Nhờ vậy đứa trẻ có thể được bồi dưỡng theo khả năng thiên bẩm của mình mà trở thành nhân tài của quốc gia.
Về giáo dục, toàn quốc đều có các trường học tôn giáo, chia thành ba cấp học, cả nam lẫn nữ đều phải hoàn thành bảy năm tiểu học và năm năm trung học. Những người có khả năng thiên phú sau khi trải qua kỳ thi sát hạch sẽ được học tiếp lên đại học tôn giáo. Bậc đại học dạy về học tập các kinh điển, ngôn ngữ văn tự rất khó hiểu, nó rất gần với ngôn ngữ của thiên quốc người da trắng, những đạo sĩ cần phải đạt đến cảnh giới cao thâm mới có thể được vận dụng năng lượng mở ra cánh cửa pháp thuật. Đại học tôn giáo chủ yếu dạy về các loại phép thuật cao siêu và các phương pháp tu luyện. Người bình thường nếu ngoan cố vận dụng chúng thì sẽ lập tức bị cạn kiệt sinh lực, nguy hiểm đến tính mạng, sẽ không sống nổi quá bảy ngày. Những đạo sĩ này sau khi được tốt nghiệp sẽ thành người bảo vệ chân lý, là sứ giả của Thần truyền đạo nơi thế gian.
Lịch sử như một vở kịch, cả bạn và tôi đều ở trong đó. Có khi tiếng nhạc vang lên hùng tráng, rồi cũng đến hồi kết thúc. Vương triều Apollo rực rỡ nhường ấy cũng không thể thoát khỏi cảnh suy tàn. Vào thời kỳ mạt pháp của vương triều này, tôn giáo trở thành chính trị, chạy theo danh lợi, làm biến dị nội hàm của tôn giáo. Tôn giáo suy đồi dẫn đến đạo đức xã hội trở nên bại hoại. Cuối cùng vương triều ấy đã bị chư thần tiêu hủy. Toàn bộ đại lục bị nhấn chìm trong đại hồng thủy, động đất và các thiên tai khác. Nền văn minh huy hoàng một thời ấy đã nằm sâu dưới đáy biển. Trải qua vô số lần luân hồi, hôm nay chúng ta quay đầu nhìn lại, hồi tưởng lại chuyện xưa mà cứ như đang ở trước mắt, bao nhiêu năm tháng ấy giờ đây chỉ như những đám mây bay qua tầm mắt.
Xem tiếp Phần 2

Bí ẩn của lịch sử Trái Đất mà tôi được biết (2): Đế quốc Lan Đặc Tư



Tác giả: Đạo Minh
[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 1
Dẫn nhậpThuận theo tiến trình Chính Pháp không ngừng tiến đến không gian bề mặt và tôi liên tục đề cao tâm tính, đồng hóa với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn, trí huệ và năng lực mà Đại Pháp cấp cho tôi cũng càng ngày càng mạnh mẽ hơn. Đại Pháp cũng đã triển hiện những chân tướng tại các tầng vũ trụ khác nhau tương ứng với cảnh giới tu luyện của tôi, bao gồm cả những bí ẩn trong lịch sử của Trái Đất. Nay xin viết ra để các đồng tu cùng tham khảo.
Trong thời kỳ tiền sử, nền văn minh của nhân loại đã nhiều lần đạt đến trình độ khoa học kỹ thuật cao siêu hơn khoa học kỹ thuật thời kỳ này của chúng ta. Trong bài viết này, tôi xin kể tóm tắt về thời kỳ phát triển đỉnh cao của khoa học kỹ thuật vào thời nhân loại tiền sử, nhưng dù khoa học có phát triển đến đâu thì kết cục của nó vẫn đi tới hủy diệt.
Vào khoảng 130 triệu năm về trước, bề mặt các lục địa trên Trái đất khác nhiều so với ngày nay, khi ấy có một lục địa lớn và rất nhiều lục địa nhỏ rải rác khắp thế giới. Trên lục địa lớn có một quốc gia tên là đế quốc Lan Đặc Tư, phiên dịch sang ngôn ngữ hiện đại nghĩa là “đế chế liên hành tinh”. Khoa học kỹ thuật của họ vô cùng phát triển, ngoại hình con người giống với người Ả Rập hiện nay, nhưng họ không có quan hệ gì với người Ả Rập ngày nay, phục sức cũng không khác nhiều, là loại áo dài Ả Rập. Dân số vào khoảng 30 triệu người. Về phương diện khoa học kỹ thuật, họ sử dụng máy móc trí tuệ nhân tạo, được điều khiển bởi tư duy của con người. Nhân loại thời đó có thể du hành không gian hết sức dễ dàng, đâu đâu trong hệ Ngân Hà này cũng có dấu chân của họ.
Khi đó, đế chế Lan Đặc Tư là một cường quốc rất hùng mạnh, họ phát động chiến tranh hạt nhân trên phạm vi toàn cầu, hủy diệt tất cả những quốc gia đối kháng với họ, thống lĩnh toàn bộ Trái đất. Những quốc gia bại trận trở thành các nước chư hầu của họ. Do cuộc chiến tranh hạt nhân kéo dài, bề mặt Trái đất đã bị tàn phá thật thảm khốc, phóng xạ hạt nhân bao trùm hết thảy vạn vật, dẫu cho họ là quốc gia cực kỳ phát triển nhưng vẫn không còn cách nào khác ngoài việc chui xuống lòng đất để duy trì sự sống. Bề mặt Trái đất tràn ngập các loại động thực vật bị phóng xạ làm cho biến dị. Con người nếu muốn quay lại mặt đất làm gì đó thì phải mặc đồ bảo hộ phóng xạ. Khoa học kỹ thuật của họ còn phát triển đến mức họ có thể thay đổi được cấu trúc gen của muôn loài, tạo ra những giống loài mới, kỹ thuật biến đổi gen này được áp dụng ở hầu hết các phương diện trong xã hội, tuy nhiên kỹ thuật biến đổi gen này lại phá hoại thế giới do Thần tạo ra, phá hoại trạng thái cân bằng của nhân loại. Hãy lấy một vài thí dụ: những người bị cụt mất tay chân trong chiến tranh có thể được khôi phục lại tay chân nhờ kỹ thuật gen. Giới quý tộc và hoàng tộc có thể trở nên trẻ đẹp hơn nhờ kỹ thuật biến đổi gen. Những người lao động chân tay thì có thể cải tạo tứ chi để trở nên lực lưỡng hơn. Những người lao động trí óc thì khuếch trương dung lượng của bộ não để trở nên thông minh hơn. Mỗi đứa trẻ khi sinh ra đời sẽ được truyền nhập lượng tri thức mà người ta mong muốn nó nắm vững, tương đương với việc học tập trong khoảng 15 đến 30 năm.
Văn hóa của nhân loại thời đó cực kỳ biến thái, tương tự với văn hóa biến dị của Nhật Bản hiện nay, hoặc xã hội dâm loạn của Hy Lạp thời kỳ cuối. Giới quý tộc nhờ biến đổi gen mà có thể sáng tác được những bản nhạc hay và vũ điệu đẹp để hưởng thụ cuộc sống. Có những phụ nữ được tuyển chọn từ khi còn nhỏ và bị tiêm các loại thuốc biến đổi gen và tinh chất của các loại hoa, đến khi trưởng thành thì cả cơ thể lẫn các dịch nhầy trong cơ thể đều tỏa ra mùi thơm thoang thoảng hoặc mùi thơm dạt dào của các loại hoa như hoa hồng, hoa tulip và các loài hoa khác.
Về phương diện quân sự, công nghệ của họ gần như đã đạt đỉnh cao so với tất cả những nền văn minh tiền sử trên Trái đất. Đồng thời họ cũng là một dân tộc hiếu chiến sống bằng cách đi xâm chiếm, cướp đoạt các dân tộc khác. Phi thuyền của họ sử dụng động cơ năng lượng lượng tử. Họ chế tạo được loại hợp kim siêu bền có tính chịu nhiệt và chống hao mòn cực cao. Họ có thể du hành bất cứ đâu trong hệ Ngân Hà này. Vào thời kỳ ấy,  khoa học kỹ thuật của họ đạt trình độ cao trong toàn bộ hệ Ngân Hà. Với dã tâm cường đại, họ còn muốn thống trị cả hệ Ngân Hà. Cuối cùng, trải qua nỗ lực của nhiều thế hệ nhân loại trên Trái đất, họ đã chinh phục được một phần ba hệ Ngân Hà. Trong quá trình xâm lược, họ còn liên kết với rất nhiều hành tinh khác có trình độ công nghệ tương đương với họ, rồi phát động một số cuộc đại chiến giữa các hành tinh. Trong quá trình đó, họ đã bắt rất nhiều người ngoài hành tinh làm nô lệ, có nhiều sinh mệnh của các tinh cầu khác bị bắt bỏ vào lồng giam để người Trái đất thưởng ngoạn. Ngoài vũ khí hủy diệt ra, họ còn chế tạo ra loại vũ khí gen, đây là một loại thuốc biến đổi gen khi đưa vào cơ thể của người nam hoặc nữ sẽ khiến cho con cái họ sinh ra bị dị hình dị dạng, cuối cùng không quá ba thế hệ, chủng tộc đó sẽ bị diệt chủng.
Nói về quốc gia sinh tồn dưới lòng đất, họ có một trạm phát điện chủ đạo vận hành bằng năng lượng lượng tử, phân phối cho bảy trạm phát điện phụ, đáp ứng tất cả nhu cầu năng lượng của toàn quốc. Họ còn áp dụng kỹ thuật biến đổi gen lên các loài động vật nuôi, khiến chúng có thể giao tiếp được với con người, thậm chí có thể nói được một số câu đơn giản bằng ngôn ngữ của người. Thời kỳ văn minh của họ tồn tại trong vài ngàn năm rồi cuối cùng bị hủy diệt hoàn toàn. Nền văn minh ấy đã bị người ngoài hành tinh từ chòm sao Ma Yết (Capricorn) có trình độ khoa học kỹ thuật cao cấp hơn hủy diệt. Người ngoài hành tinh xâm lược Trái đất ấy có sức mạnh vô cùng to lớn, họ có ngoại hình nửa thú giống với loài Atula. Họ đã phá hủy trạm phát điện chính của quốc gia dưới lòng đất, triệt để tiêu hủy mọi thứ, đại đa số người dân dưới lòng đất đều không trốn thoát được. Toàn bộ lục địa lớn ấy trở thành hoang mạc, chỉ còn một số ít loài động thực vật biến dị còn tồn tại.
Tuy nhiên nhân loại trên Trái đất không bị tuyệt diệt hết, vẫn còn một số người đã di cư đến các tinh cầu khác trước khi đại chiến nổ ra, và trong quá trình xâm lược trong quá khứ cũng có nhiều người định cư tại các hành tinh khác, họ đã quay trở lại Trái đất và sinh sống trên các lục địa nhỏ, khai sáng một nền văn minh mới, cũng có thể nói đây là một nền văn minh được nối tiếp liên tục, có điều không còn phát triển được như trước nữa mà dần dần thoái hóa. Trong thời gian đó có một số đã di cư lên sao Hỏa, hiện nay vẫn có con người đang sống trên sao Hỏa, họ chính là tổ tiên của chúng ta từ nền văn minh tiền sử.
Tóm lại, vạn vật trong vũ trụ đều phát triển theo quy luật từ thấp đến cao, rồi lại từ cao xuống thấp, cứ tuần hoàn như vậy. Mọi thứ trên thế gian đều không tồn tại mãi mãi, cuối cùng đều đến hồi kết thúc.

Bí ẩn của lịch sử Trái Đất mà tôi được biết (3): Bí ẩn về chiếc pin Baghdad



Tác giả: Đạo Minh
[ChanhKien.org]
Dẫn nhậpThuận theo tiến trình Chính Pháp không ngừng tiến đến không gian bề mặt và sự liên tục đề cao tâm tính, đồng hóa với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn, trí huệ và năng lực mà Đại Pháp cấp cho tôi cũng càng ngày càng mạnh. Đại Pháp cũng đã triển hiện những chân tướng tại các tầng vũ trụ khác nhau tương ứng với cảnh giới tu luyện của tôi, bao gồm cả những bí ẩn trong lịch sử của Trái Đất. Nay xin viết ra để các đồng tu cùng tham khảo.
Bí ẩn về chiếc pin Baghdad
Một ngày mùa hè năm 1936, tại làng Parthia thuộc ngoại ô thành phố Baghdad, thủ đô của nước Irad, một công nhân xây dựng đường sắt đã tình cờ phát hiện một ngôi mộ cổ được xây bởi những khối đá lớn, trên mặt khối đá có nhiều ký tự chữ Ba Tư cổ đại. Trong quan tài đá có rất nhiều vàng bạc châu báu, ngoài ra còn phát hiện một vật kỳ lạ, đó là một chiếc pin hóa học được cấu tạo bởi đồng, sắt và gốm. Đây chính là chiếc bin Baghdad nổi tiếng thế giới.
Đến nay, pin Baghdad vẫn là một ẩn đố vĩnh viễn không có lời giải và không được giới khảo cổ công nhận, các loại suy luận, giả thuyết đều không thể giải thích được nguồn gốc của pin Baghdad. Hôm nay, tôi muốn tiết lộ nguồn gốc thần bí của chiếc pin Baghdad này.
Để truy tìm gốc rễ của chiếc pin Baghdad, không thể không đề cập đến một nền văn minh tiền sử không được ghi chép lại trong sử sách. Trong cảnh giới của tôi triển hiện hình ảnh của 23800 năm trước, tại đại lục Tây Phi có một quốc gia rất phát triển tên là Á Đô Thuật (nghĩa là quốc gia mà chúng Thần cư ngụ), quốc gia này theo chế độ quân chủ lập hiến, nhân khẩu gần 8.000.000 người, họ thuộc chủng người da ngăm đen. Người dân ở đây lương thiện, chất phác, họ rất thành kính và tín ngưỡng Thần. Họ chú trọng việc nghiên cứu thân thể người, các hành tinh và vũ trụ, họ đã đạt trình độ khá cao về phương diện phát triển tiềm năng con người. Họ coi trọng mối quan hệ giữa thân thể người với tự nhiên và vũ trụ, họ nghiên cứu và thực nghiệm các nhận thức và lý luận liên quan đến vấn đề này.
Trong quá trình luân hồi, tôi cùng một đồng tu mà tôi quen biết đã chuyển sinh vào vương triều thứ ba của nước Á Đô Thuật, lúc đó tôi là nhân viên thần chức, cai quản việc hậu cần và tài chính của quốc gia. Đồng tu trong đời đó tên là Á Địch (nghĩa là sứ giả của Thần), do căn cơ tốt nên từ nhỏ cô đã có rất nhiều năng lực siêu thường, cô là thiên tài có một không hai trong giới tu hành của vương quốc này, là đối tượng được quốc gia chú trọng bồi dưỡng, từ nhỏ đã được giới tu đạo ở cảnh giới cao quan tâm, cô bắt đầu tu luyện từ khi năm tuổi. Trải qua hơn 20 năm khổ tu, năm 30 tuổi, Á Địch đã đạt trình độ khá cao cả về tu luyện và công năng pháp thuật, những người trong giới đạo sĩ cảnh giới cao có sở trưởng đặc biệt như Á Địch trên toàn quốc có không quá 10 người. Sở trường của Á Địch là vượt thời không (thời gian và không gian). Lúc đó tôi có quan hệ rất thân thiết với Á Địch, tôi thường góp ý kiến cho Á Địch về việc vượt thời không để giúp cô hoàn thành nhiệm vụ mà quốc gia giao phó, sứ mệnh của Á Địch là tìm hiểu về lịch sử quá khứ và tương lai của Trái Đất. Trình độ khoa học kỹ thuật khi đó rất phát triển, mặc dù Á Địch hoàn toàn có thể dùng pháp lực thần thông để vượt thời không, nhưng các nhà khoa học lúc đó còn nghiên cứu ra một cỗ máy vượt thời không để hỗ trợ cho cô. Cỗ máy này có đường kính 10 mét, có thể ngồi được hai người, phía trước có một cửa sổ hình vòng cung, cỗ máy hoạt động bằng năng lượng phân tử vi quan, nó ở trạng thái bán tàng hình, nó được điều khiển bằng ý niệm của con người. Cỗ máy vượt thời không này có thể giúp cô tăng thời gian lưu lại tại một không gian khác.
Một lần, Á Địch vượt thời không đến một ngôi làng nhỏ tại nước Ba Tư cổ đại ở thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, một người chăn dê gần đó tận mắt chứng kiến cỗ máy vượt thời không hạ xuống, ông tưởng rằng Thiên thần hạ giới trước mắt nên vô cùng cảm động, do đó ông đã giữ lại chiếc pin năng lượng cũ mà cỗ máy vượt thời không đã bỏ lại sau khi thay pin mới. Chiếc pin này có năng lượng rất lớn và nó có thể giải phóng nhiệt lượng. Người chăn dê coi nó là vật tín của Thần nên đời đời lưu truyền, chiếc pin được truyền đến đời con cháu của ông ở thế kỷ 18. Chiếc pin trở nên nổi tiếng và nhiều người quyền quý, giàu có muốn sở hữu nó. Để giữ cho chiếc pin không bị kẻ khác lấy mất, con cháu của người chăn dê quyết định chôn chiếc pin cùng với một số đồ vật quý giá trong quan tài của một người thân đã mất. Trong quá trình lưu truyền, lớp vỏ ngoài làm bằng sợi cacbon của chiếc pin cũng dần dần bị bào mòn, nó được người đời sau thay bằng lớp vỏ sứ. Đây cũng là chỗ mà các nhà khảo cổ học hiện nay không thể nghiên cứu ra được, bởi kết cấu bên trong và bên ngoài của chiếc pin là những thứ không cùng một thời đại, cho nên con người hiện nay dù có suy đoán, giả thiết thế nào cũng không suy đoán ra được. Kỳ thực, con đường phát triển của khoa học hiện nay đã bó buộc tư duy của con người, muốn giải khai rất nhiều những ẩn đố trên Trái đất thì thực sự phải nhảy ra khỏi những quan niệm cố hữu mà nhận thức bằng một phương pháp tư duy khác.
Á Địch tu luyện trong người thường hơn 200 năm, trải qua hai triều đại quốc vương, cô đã nhiều lần vận dụng pháp thuật thần thông để vượt thời không, du hành về lịch sử và tương lai, tìm hiểu mọi ngóc ngách của Trái đất, cô là một nhà du hành thời không nổi tiếng. Mặc dù cô có thể tiến vào bất cứ thời đại nào, nhưng lại không được phép mang về bất cứ nhân tố vật chất nào của thời đại đó, nếu không sẽ khiến cho trường thời không vật chất của bản thân cô bị loạn, cô cũng sẽ không thể nào trở lại thời đại của mình được nữa. Tuy nhiên, thông qua toàn bộ những hình chiếu lưu lại trên máy thời gian, cô có thể giữ lại những hình ảnh của quá khứ và tương lai, dùng phương thức này để tham khảo, tìm hiểu những nền văn minh khác nhau, từ đó bổ sung cho những mặt còn thiếu sót của xã hội thời đó. Vào thời đại này, có rất nhiều đạo sỹ ở các cảnh giới cao đều dự đoán được rằng trong tương lai, vị vương của vũ trụ sẽ hạ xuống thế gian, truyền bá Đại Pháp của vũ trụ để cứu chúng sinh, cho nên những đạo sỹ vượt thời không như Á Địch sẽ không xuất hiện trong vòng 2000 năm của thời kỳ văn minh lần này, họ biết rằng Thần đang chuẩn bị một cách có hệ thống cho sự kiện này, vậy nên không cho phép bất kỳ ai can nhiễu, phá hoại.
Mọi mặt đời sống, xã hội của vương triều Á Đô Thuật đều chịu ảnh hưởng của khoa học nhân thể. Trong nông nghiệp, họ sử dụng siêu năng lượng lựa chọn ra những giống loài động, thực vật tốt nhất để gieo trồng và chăn nuôi, các sản phẩm cây trồng không những cho ra quả to mà còn giàu chất dinh dưỡng. Về công nghiệp, chính phủ cử những người có công năng thấu thị và cảm nhận để thăm dò khoáng sản, đo lường cảm ứng trường năng lượng của tài nguyên khoáng sản, từ đó tìm ra một cách chuẩn xác các kim loại hiếm, hỗ trợ cho công nghiệp phát triển, nhưng các loại máy móc chỉ có tác dụng hỗ trợ cho siêu năng lượng của con người.
Các vương triều Á Đô Thuật đều giữ gìn được tư tưởng tôn trọng tự nhiên, nhân văn, kính trọng trời đất, họ tạo ra những vườn hoa ở khắp nơi. Những khu rừng rậm rạp, mênh mông, những thảo nguyên bát ngát, đầy hoa thơm và chim hót, sống trong môi trường như vậy khiến tâm thái con người rất yên bình, hòa ái, con người cùng chung sống hòa hợp với tự nhiên.
Thời đại hưng thịnh của vương triều Á Đô Thuật mặc dù không có nhiều cuộc chiến tranh, khắp nơi hòa bình, nhưng lực lượng quân sự của họ lại hùng mạnh nhất so với các thời đại lịch sử mà tôi từng thấy. Lúc đó cũng có các tín đồ tà giáo phát động chiến tranh, phương pháp giải quyết chiến tranh của vương quốc Á Đô Thuật cũng rất đặc biệt. Họ chiêu tập những người có siêu năng lượng và pháp lực thần thông mạnh nhất trong nước, trực tiếp sử dụng thần thông tiêu diệt nhục thân của những kẻ ác phát động chiến tranh tại nhân gian. Trước khi lên kế hoạch chiến tranh, họ liền tiêu trừ những âm hồn và kẻ ác phát động chiến tranh, tiêu diệt cuộc chiến tranh ngay khi nó vừa nảy sinh. Nếu có kẻ địch xâm lược, họ sẽ sử dụng vũ khí khí tượng để tiêu diệt kẻ địch. Nếu vào mùa hè nóng bức, họ sẽ phái nhiều người có pháp thuật hùng mạnh bao vây quân địch ở một nơi đã định, sử dụng pháp thuật làm nhiệt độ ở khu vực đó giảm xuống âm 20 độ C, khiến cho quân địch đang mặc trang phục mùa hè không có sự chuẩn bị trước sẽ chết vì lạnh, toàn quân tan rã.
Vương quốc Á Đô Thuật trải qua bảy đời vương triều, kéo dài mấy trăm năm, đến vương triều thứ bảy thì cũng giống như rất nhiều nền văn minh khác, toàn bộ đạo đức xã hội đều trượt dốc, nhân tâm sa đọa, đen tối, tôn giáo sau nhiều lần sửa đổi đã không còn tín ngưỡng chính Thần nữa, họ bắt đầu tín ngưỡng ma quỷ. Sau một thời gian, họ bị trời trừng phạt, các trận đại dịch hoành hành khắp nơi đã khiến vương triều cuối cùng đi đến diệt vong.
Lịch sử như bánh xe xoay chuyển, thoáng chốc đã hàng triệu năm trôi qua, trải qua bao thế sự xoay vần, vật đổi sao rời, những vương triều hùng mạnh xưa kia trong nháy mắt đều đã tan thành mây khói, chôn vùi trong dòng sông dài lịch sử cuồn cuộn chảy.

Bí ẩn của lịch sử Trái Đất mà tôi được biết (4): Truyền thuyết về người cá



Tác giả: Đạo Minh
Tiếp theo Phần 1Phần 2Phần 3
[ChanhKien.org]
Lời dẫn:
Thuận theo tiến trình Chính Pháp không ngừng tiến đến không gian bề mặt và sự liên tục đề cao tâm tính, đồng hóa với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn, trí huệ và năng lực mà Đại Pháp cấp cho tôi cũng càng ngày càng mạnh. Đại Pháp cũng đã triển hiện những chân tướng tại các tầng vũ trụ khác nhau tương ứng với cảnh giới tu luyện của tôi, bao gồm cả những bí ẩn trong lịch sử của Trái Đất. Nay xin viết ra để các đồng tu cùng tham khảo.
Truyền thuyết về người cá
Ở phương Tây từ xưa đến nay người ta đều lưu truyền những truyền thuyết về sự tồn tại của người cá, nhưng người cá có thực sự tồn tại hay không lại là câu hỏi mọi người đều thắc mắc mà không đưa ra được kết luận nào. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kỹ thuật quay phim, chụp ảnh, nhiều người ở khắp nơi trên thế giới đã vô tình quay được những hình ảnh ẩn hiện của người cá. Thật thật giả giả càng khó mà phân biệt được. Vậy người cá có thực sự tồn tại không? Câu trả lời là có. Trong cảnh giới tu luyện của tôi triển hiện: vào 23.000 năm trước tại khu vực biển Đại Tây Dương có một chủng loài đặc biệt sinh sống, họ là những chủ nhân của biển – chủng người cá. Lúc đó là thời kỳ văn minh hưng thịnh trên Trái Đất, trên Trái Đất đồng thời tồn tại cả người khổng lồ, người trung bình và người tí hon. Người trung bình thống trị trên các đại lục chính. Bản khối đại lục không khác nhiều so với ngày nay, quốc gia nằm ở đại lục Châu Âu có khoa học kỹ thuật vô cùng phát triển. Ở đại lục Bắc Mỹ, nền văn minh Maya lúc đó cũng đang phát triển hưng thịnh. Còn vùng biển xung quanh đại lục nơi mà chủng người da trắng sinh sống có rất nhiều bộ lạc người cá sinh sôi phát triển.
Chủng người cá là một quần thể sinh mệnh rất đặc biệt, một loại nửa thân trên là người, nửa thân dưới là cá, một loại khác có nửa thân trên là cá, nửa thân dưới là người với hai chân. Người cá cao khoảng 2,5m, tóc màu nâu nhạt, làn da có màu xám trắng lóng lánh như ánh trăng, mắt màu xanh sẫm, hai tai áp sát vào thân thể, vành tai rất nhỏ, trong tai có màng chống nước. Toàn thân họ bao phủ bởi một lớp vảy, hai bên má họ có vảy mịn. Người cá có thể sống được cả trên bờ và dưới nước bởi vì họ có cả mang và phổi, họ có thể sống ở trên bờ 2 đến 3 tiếng. Một chủng người cá khác chỉ có mang, loại này không thể sống trên cạn. Người cá sinh sản bằng cách mang thai, một người cá nữ chỉ có thể mang thai một lần trong đời. Người cá nam thiên về trọng lượng, thân thể họ có thể nặng đến 500 kg, người cá nữ thì thiên về công năng pháp thuật, họ có năng lực siêu thường. Tuổi thọ của họ khá cao, thường có thể sống đến hơn 200 tuổi, người cá nữ có thể sống trên 300 tuổi.
Bộ lạc người cá sử dụng các loại tảo biển, rong biển làm thức ăn. Có lúc họ cũng vây bắt những loài cá lớn, giết các loài cá voi và cá mập nhỏ. Vua của người cá sẽ dựa vào biến đổi của thủy triều để triệu tập hội nghị các bộ lạc người cá, họ cùng nhau trao đổi tình hình ở các đại dương, bàn luận việc bảo vệ cân bằng sinh thái đại dương và sự phát triển của chủng người cá trong tương lai.
Tộc người cá thờ phụng Thần biển, họ sử dụng những cung điện của các nền văn minh tiền sử bị chìm xuống đáy biển làm nơi thờ phụng Thần biển, trong điện Thần vẫn tồn tại những câu thần chú viết bằng chữ tượng hình và các bài vị được khắc trên đá của người tu hành mật pháp do những người cá tu hành đắc đạo lưu lại. Đây là cấm địa của bộ lạc người cá, chỉ có vua, hoàng hậu và những người cá tu luyện ở cảnh giới cao thâm mới được ra vào. Nó chỉ được mở cửa khi có những hoạt động tôn giáo lớn hàng năm. Những vật chất dùng để chiếu sáng trong điện Thần rất đặc biệt, họ dùng một loại khoáng thạch có chứa ma-giê và sử dụng pháp thuật để thắp sáng lên. Khoáng thạch này tạo nên một ngọn lửa màu xanh trắng ở trong nước, khiến cho cả cung điện rực sáng, những ngọn lửa này trải qua bao năm tháng chưa bao giờ tắt. Phương thức tu luyện của người cá là hàng ngày cầu nguyện trước Thần biển. Họ chú trọng thiên, hải, nhân hợp nhất. Cùng với việc đề cao tâm tính, cảnh giới tu luyện của họ cũng không ngừng thăng hoa, nhưng do đặc thù kết cấu thân thể của người cá, đan điền của họ không có chức năng như con người, nên người cá phải qua nhiều lần chuyển sinh mới có thể tu thành quả vị, thông thường họ phải chuyển sinh bảy đời. Vua của người cá cũng phải tu luyện đạt đến cảnh giới Bồ Tát Pháp trở lên. Hoàng hậu người cá có thần thông pháp lực vượt khỏi những gì mà chúng ta có thể tưởng tượng, thậm chí bà có thể chiêu gọi vong hồn của các sinh linh dưới biển và các động vật biển tham gia chiến đấu, trong địa phận biển, bà có thể dùng năng lực siêu thường của mình để tạo nên những trận sóng thần rất lớn.
Vào thời kỳ mà vương quốc người cá thống trị biển, thế giới hải dương rất ít xảy ra chiến tranh. Mỗi bộ lạc cai trị một vùng biển với các phương thức khác nhau, họ đều được Thần công nhận. Thời gian trôi đi rất nhanh, đến năm thứ 180 trong thời kỳ cai trị của vua người cá, hôm đó, vua người cá nhận được tin do một tộc trưởng bộ lạc người cá gửi đến. Thời gian này rất nhiều sinh vật trong thế giới hải dương bị một con quái vật biển không rõ danh tính ăn thịt, rất nhiều người cá cũng không may là nạn nhân của con quái vật. Sự việc này gây nên một chấn động mạnh mẽ trong bộ lạc người cá. Vua người cá hiểu được tính nghiêm trọng của vấn đề, trong khi thiền định, ông đã nhìn thấy được bộ mặt thật của con quái vật biển. Nó vốn là một con rắn biển đã thành tinh gây sóng gió ở khu vực đáy biển Bắc Băng Dương, con rắn biển thành tinh này đã tu hành 788 năm, nó dài khoảng 8m, đường kính thân lên đến 2m, toàn thân đen nhánh, hai con mắt đỏ ngầu, hai đồng tử màu vàng kim phát ra hai luồng ánh sáng hung hãn, độc ác. Thân thể con rắn này phóng ra chất kịch độc, khiến những sinh vật trong vòng bán kính mấy km dưới biển không thể sống nổi. Vua và hoàng hậu người cá đã bàn bạc, vạch ra kế hoạch bí mật trừ yêu.
Hoàng hậu người cá tay cầm một pháp trượng nhỏ làm bằng pha lê màu trắng bạc, dẫn theo 180 dũng sỹ người cá, mỗi người mang theo những chiếc khiên với những mấu gai tẩm chất độc, họ mai phục ở xung quanh hang động dưới đáy biển nơi con quái vật cư ngụ, họ cũng rắc xung quanh đó một loại thức ăn kịch độc do đích thân hoàng hậu bào chế từ những loài sinh vật có độc dưới biển, rồi phái một người cá nhỏ ăn no nê làm mồi nhử để dụ rắn ra khỏi hang, quả nhiên con rắn trúng kế, rơi vào vòng vây. Con rắn ăn phải thức ăn có độc, khiến thần kinh tê liệt. Lúc này hoàng hậu tay cầm pháp trượng khảm ngọc màu lam, phóng một luồng năng lượng bao phủ lấy đầu con rắn, khiến con rắn không thể nào thi triển phép thuật được, nó vùng vẫy thục mạng. Cùng lúc đó, những dũng sĩ người cá phóng ra những chiếc khiên có gai độc, hàng trăm gai nhọn độc găm lên mình rắn, con rắn lập tức mất mạng. Cuối cùng vua người cá đọc thần chú phong ấn linh hồn con rắn vĩnh viễn trong bộ hài cốt của nó, bị chôn vùi cùng xác con rắn dưới tận cùng đáy biển Bắc Băng Dương, đến giờ nó vẫn tồn tại ở đó. Vua người cá tu hành dưới biển gần 7.000 năm, cuối cùng ông được Thần triệu hồi, khai thị rằng trong tương lai còn có sứ mệnh lịch sử phải hoàn thành, phải chuyển sinh đến thế gian con người, bắt đầu một tiến trình sinh mệnh mới.
Ngày nay tại các đại dương trên thế giới vẫn có hơn 8000 người cá sinh sống, họ chủ yếu phân bố ở vùng đáy biển Đại Tây Dương và vùng biển châu Úc. Người cá là một quần thể sinh mệnh đặc biệt trong thế giới đại dương, qua hàng trăm triệu năm đằng đẵng, dưới sự dẫn dắt của Thần, họ đã trải qua những thăng trầm trong thế giới đại dương ở phương Tây. Trong tương lai, chủng tộc người cá vẫn tiếp tục sinh tồn và không ngừng phát triển.
Xem tiếp Phần 5

Bí ẩn của lịch sử Trái Đất mà tôi được biết (5): Tam giác Bermuda – cánh cửa thời không



Tác giả: Đạo Minh
Tiếp theo Phần 1Phần 2Phần 3Phần 4
[ChanhKien.org]
Lời dẫn:
Thuận theo tiến trình Chính Pháp không ngừng tiến đến không gian bề mặt và sự liên tục đề cao tâm tính, đồng hóa với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn, trí huệ và năng lực mà Đại Pháp cấp cho tôi cũng càng ngày càng mạnh. Đại Pháp cũng đã triển hiện những chân tướng tại các tầng vũ trụ khác nhau tương ứng với cảnh giới tu luyện của tôi, bao gồm cả những bí ẩn trong lịch sử của Trái đất. Nay xin viết ra để các đồng tu cùng tham khảo.
Tam giác Bermuda – cánh cửa thời không
Bán đảo Florida hợp với đảo Puerto Rico thuộc vùng biển Caribe và quần đảo Bermuda tạo thành một vùng biển tưởng tượng gọi là khu vực tam giác Bermuda. Hơn 100 năm trước, vô số tàu thuyền và máy bay đã bị mất tích bí ẩn ở khu vực này, một con tàu ma không người lái thoắt ẩn thoắt hiện, sóng vô tuyến bị mất tín hiệu, kim la bàn không ngừng quay tròn …, vùng biển này khiến con người hiện đại vô cùng nghi hoặc và khó hiểu. Mỗi năm có hàng ngàn người bỏ mạng nơi đây, xung quanh những câu chuyện ly kỳ xảy ra ở tam giác Bermuda, các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng đưa ra rất nhiều suy luận và giả định. Tuy nhiên, đối với người tu luyện, những suy đoán và giả định của khoa học hiện đại chỉ như người mù sờ voi, không thể nào tìm hiểu được nguyên nhân thực sự đằng sau những câu chuyện ly kỳ này. Trong cảnh giới tu luyện của tôi triển hiện, nguyên nhân các con tàu và máy bay mất tích bí ẩn ở vùng biển Bermuda là do trường không gian ở đó có những cánh cửa thời không được mở vào những thời điểm khác nhau.
Những cánh cửa thời không này hình thành vào hàng triệu năm trước, khi các hành tinh va chạm vào Trái đất, những cú va chạm cực lớn tạo thành những đường đứt gãy trên bản khối đại lục của Trái đất, những vụ nổ lớn như vụ nổ hạt nhân liên tục tạo nên những tổn thương khó vãng hồi cho không gian của chúng ta, chúng cũng gây ra những phá hoại cực lớn cho các tầng lạp tử đối ứng với Trái đất ở các không gian khác, các vụ nổ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các không gian này, gây nên những biến đổi lớn lao, long trời lở đất. Những lạp tử cấu thành nên vật chất và thời gian của nhân loại và những lạp tử ở không gian khác đã sinh ra lực cộng hưởng làm tiêu trừ sự sai lệch về vật chất giữa hai thời không, từ đó hình thành nên cánh cửa thời không. Những cánh cửa thời không vốn dĩ có thể đóng lại, nhưng vì một lý do nào đó, các sinh mệnh cao tầng đã không đóng nó lại, trong giai đoạn này chưa thích hợp để nói rõ nguyên nhân cụ thể. Hàng triệu năm nay vẫn luôn có những sinh mệnh cao tầng canh giữ cánh cửa thời không, không cho phép những sinh mệnh ở các không gian khác nhau tùy ý ra vào, sở dĩ có các hiện tượng kỳ dị xuất hiện là vì có nguyên nhân lịch sử thâm sâu. Còn có hai cách khác để mở cánh cửa thời không: một là bản thân tiểu vũ trụ chính là một thể sinh mệnh, các không gian đối ứng với vũ trụ đều có quan hệ với nó, sự biến đổi và vận động của vật chất trong tiểu vũ trụ có thể hình thành nên cánh cửa thời không; hai là các sinh mệnh cao tầng trong các không gian khác nhau của vũ trụ đều có khả năng mở cánh cửa thời không.
Không chỉ cánh cửa thời không là nguyên nhân gây ra những hiện tượng mất tích bí ẩn tại vùng biển Bermuda, còn có một nguyên nhân quan trọng khác chính là người ngoài hành tinh. Từ thời tiền sử, nơi đây đã có người ngoài hành tinh cư ngụ, trong lòng biển sâu tối tăm có một khu vực do người ngoài hành tinh xây dựng, khu vực rộng lớn này kéo dài trong phạm vi gần 100 km dưới đáy biển, họ còn cải tạo những kim tự tháp từ thời tiền sử bị chìm sâu dưới đáy biển để sử dụng. Những người ngoài hành tinh này đến từ thiên hà Thiên Nga xa xôi, họ là những sinh mệnh có trí tuệ cao cấp ở đó. Họ cao khoảng 1,5 m, da màu trắng xám, họ có một đôi mắt đen không có lòng trắng, tóc màu trắng xám, con đường phát triển khoa học kỹ thuật của họ vô cùng độc đáo theo mô hình sinh vật, hoàn toàn không giống với con đường phát triển khoa học kỹ thuật của nhân loại chúng ta. Do hành tinh mà họ sinh sống sắp sửa bị giải thể trong chính Pháp vũ trụ, những người ngoài hành tinh này không có nơi nào để đi, nên họ lựa chọn đến Trái đất để lánh nạn. Họ tìm hiểu được rằng vùng biển Bermuda là một khu vực không giống những nơi khác, bởi vì khu vực này nằm ở 30 độ vĩ bắc, ở đó có một vành đai năng lượng quan trọng giúp cho Trái đất tự chuyển động, lại thêm trường năng lượng thời không rất mạnh ở Bermuda, nơi này rõ ràng là rất đặc biệt. Trường năng lượng này có thể cung cấp đủ nguồn năng lượng cho người ngoài hành tinh, giúp họ giải quyết vấn đề nhu cầu tiêu thụ năng lượng cho vùng đất của họ. Người ngoài hành tinh coi đây là lãnh địa của họ, bất cứ sinh mệnh nào tự tiện xông vào vùng biển hoặc bầu trời ở đây đều đối mặt với nguy cơ bị hủy diệt. Trong rất nhiều trường hợp bị mất tích ở đây có một phần không nhỏ do bàn tay của người ngoài hành tinh gây nên, sau đây tôi kể ra một vài trường hợp điển hình nhằm tiết lộ sự thực phía sau:
Năm 1945, năm chiếc máy bay oanh tạc của Mỹ đã mất tích bí ẩn khi bay qua vùng biển Bermuda. Sự việc này khiến cả thế giới chấn động, nước Mỹ đã phái hơn 300 máy bay và bốn tàu chiến hạm đi tìm kiếm, họ đã mất 4100 giờ tìm kiếm trong một khu vực rộng 950.000 km2. Vậy mà vẫn không tìm thấy gì. Trong vài giờ ngắn ngủi, năm chiếc máy bay cùng 27 phi hành viên thuộc phi đội 19 đã bốc hơi không dấu vết. Tuy nhiên, vào những năm 80 của thế kỷ trước, lại có thêm phát hiện mới về sự kiện này, năm chiếc máy bay lần lượt được phát hiện tại hai nơi khác nhau. Năm 1987, nhà khoa học thuộc trung tâm vũ trụ Liên Xô, tiến sỹ Makiev đã nhận được hình ảnh rada vệ tinh do máy thăm dò hành tinh gửi về, trên miệng núi lửa trên Mặt trăng có một chiếc máy bay oanh tạc của Mỹ từ thời chiến tranh thế giới lần thứ hai, xem ký hiệu trên thân máy bay thì chính là một trong năm chiếc máy bay thuộc phi đội 19, đúng lúc Mỹ và Liên Xô muốn nghiên cứu kỹ hơn thì chiếc máy bay này lại biến mất.
Mấy năm sau, năm 1996, một nhà khoa học người Mỹ, tiến sỹ Kelutin bằng kính viễn vọng thiên văn máy tính đã phát hiện trong không trung mấy nghìn mét trên Sao hỏa có bốn chiếc máy bay oanh tạc của Mỹ trong thế chiến thứ hai đang bay với tốc độ 40.000 km/h. Bốn chiếc máy bay này chính là những chiếc máy bay thuộc phi đội 19 bị mất tích. Vậy ai đã gây nên vụ mất tích suốt nửa thế kỷ này?
Tôi thấy rằng chính những người ngoài hành tinh thuộc thiên hà Thiên Nga sống tại vùng biển Bermuda đã gây ra sự việc này. Ngày hôm đó, tàu phi hành của người ngoài hành tinh tàng hình tiến vào giữa các máy bay oanh tạc đang bay trên địa phận Bermuda. Họ khống chế tư tưởng của các phi hành viên, rồi đưa máy bay lên một chiếc đĩa bay khổng lồ, trong đĩa bay phóng ra một luồng sáng và năm chiếc máy bay trong phút chốc bị hút vào trong đĩa bay. Đĩa bay lặn xuống đáy biển, các phi hành viên trong máy bay bị đưa đến vùng đất của người ngoài hành tinh. Lúc đó, các phi hành viên nhìn thấy một thế giới xa lạ với những người ngoài hành tinh hình dạng kỳ dị, trong lòng họ tràn đầy sợ hãi, mặc dù ý thức vẫn thanh tỉnh nhưng thân thể họ lại rơi vào trạng thái tê liệt, tứ chi không thể cử động được. Trong số 27 phi hành viên có năm người bị giữ lại dưới đáy biển để làm các loại thí nghiệm thân thể. Trong số năm người này, người sống lâu nhất được 13 năm. Những người còn lại bị người ngoài hành tinh dùng năng lượng trong nháy mắt vật chất hóa, thân thể bị biến thành dạng phân tử. Người ngoài hành tinh phóng ra một chùm năng lượng giống như con đường vận chuyển trong không gian khác, một chiếc máy bay được đưa lên vùng đất phía sau trên Mặt trăng, bốn chiếc máy bay còn lại bị đưa đến Sao hỏa. Ở độ sâu 1500 m đến 4000 m dưới lòng đất trên Sao hỏa có một khu vực rộng lớn cũng do người ngoài hành tinh thuộc thiên hà Thiên nga xây dựng. Dưới lòng Sao hỏa có hồ nước chứa muối kiềm, người ngoài hành tinh lấy nước trong hồ tinh lọc thành nước uống để sử dụng. Năm đó, thứ mà tiến sỹ Kelutin nhìn thấy chính là thí nghiệm của người ngoài hành tinh. Họ dùng năng lượng làm biến đổi kết cấu và vật liệu của chiếc máy bay, sau đó làm thí nghiệm gia tốc để kiểm tra xem nếu dùng kỹ thuật của người ngoài hành tinh kết hợp với vật liệu của người Trái đất rồi tăng tốc cho máy bay để nó tiến nhập vào không gian khác thì nó có thể bị tiêu hủy không. Hiển nhiên là thí nghiệm này không thể thành công, vật chất phân tử tại không gian người thường khi tiến nhập vào không gian vi quan hơn, nếu không có năng lượng cực đại thì sẽ bị tiêu hủy trong phút chốc.
Thuận theo tiến trình chính Pháp, những người ngoài hành tinh sống trên Sao hỏa đã phát hiện rằng những nhân tố vật chất trên Sao hỏa rất không ổn định, nó cũng sắp bị giải thể, chỉ có môi trường kết cấu của Trái đất là ổn định nhất, do vậy họ đã lũ lượt rời khỏi Sao hỏa quay trở về Trái đất. Đến nay vùng đất mà người ngoài hành tinh xây dựng trên Sao hỏa đã bị bỏ hoang, trở thành một đống hoang tàn, đổ nát. Phía sau Mặt trăng cũng có người ngoài hành tinh cư ngụ, lúc nhiều nhất có hơn một trăm sinh vật ngoài hành tinh, đến nay chỉ còn lại hai người ngoài hành tinh sống trên đó, họ không có cơ hội sống sót.
Tháng 9 năm 1931, một chiếc tàu săn bắt cá voi của Canada mang nhãn hiệu Baychimo vận chuyển hàng hóa da và lông thú trị giá hàng triệu USD, tàu lênh đênh trên biển mười mấy ngày, khi sắp đến đảo Wainwright ở gần Alaska thì gặp một trận bão tuyết dữ dội, chiếc tàu bị mắc kẹt trên mặt băng không thể di chuyển được. trong vòng một tuần, chiếc tàu này đã biến mất hai lần, tuy nhiên trong vòng 15 năm sau đó, con tàu Baychimo thi thoảng lại xuất hiện, nó giống như một con tàu ma phiêu dạt trên biển, nhưng mấy chục năm nay thì không ai nhìn thấy con tàu đó nữa. Vậy rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra?
Tôi trông thấy con tàu này đã bị chìm dưới đáy biển Bắc băng dương vào năm 1944, thân tàu cho đến nay vẫn còn nguyên vẹn ở đó. Còn con tàu phiêu dạt trên biển suốt nhiều năm thực ra là do một nhóm vong hồn âm thầm thao túng. Những vong hồn này từng là các thuyền viên của một con tàu săn tìm báu vật của Tây Ban Nha. Khi còn hoạt động trên biển, những thuyền viên trên con tàu này đã từng gây ra rất nhiều tội ác như đốt nhà, giết người, cướp của trên các đảo tại nam Thái bình dương. Điều này khiến cho thầy phù thủy của thổ dân trên đảo tức giận, tất cả những kẻ gây ra tội ác đều bị thầy phù thủy dùng pháp thuật hắc ám áp lên lời nguyền ác độc nhất, tất cả thuyền viên trên con tàu này đều chịu lời nguyền phải chết, sau đó một trận dịch bệnh đột nhiên ập đến cướp đi sinh mệnh của tất cả bọn họ. Do chịu lời nguyền, những người này sau khi chết đi không thể chuyển sinh, họ trở thành những cô hồn dã quỷ, những vong hồn này bị mất phương hướng trên biển cả mênh mông trong một không gian khác. Họ muốn tìm một con tàu có thể đưa họ trở về quê hương, vừa hay trên con tàu Baychimo có một vật dụng mà họ đã từng sử dụng, đó là một chiếc la bàn, tìm được tín vật này, các vong hồn đã xâm chiếm con tàu săn cá voi Baychimo. Con tàu bị điều khiển bởi các vong hồn này đã qua lại thời không ở vùng biển Bermuda suốt mười mấy năm.
Do các vong hồn chỉ nhìn thấy hình ảnh đối ứng ở không gian khác, cho nên dù họ có lái tàu đi khắp nơi cũng không thể tìm được đường trở về Tây Ban Nha. Con tàu Baychimo mà người ta nhìn thấy trên biển chẳng qua chỉ là hình ảnh phản chiếu của nó từ không gian khác đến đây mà thôi, con tàu ma quỷ này phiêu bạt khắp nơi, không những can nhiễu đến xã hội người thường mà còn phá hoại trật tự cân bằng trên biển, do vậy Thần biển cai quản vùng biển ở phương tây đã dùng pháp lực vĩ đại lưu đày những vong hồn này vĩnh viễn trên một hòn đảo ở Bắc băng dương, còn con tàu Baychimo thì vĩnh viễn chìm sâu dưới đáy biển Bắc băng dương.
Mỗi năm ở Bermuda có hàng ngàn người thiệt mạng, nhưng cũng có một số người sống sót trở về, sau đây tôi xin kể về một trường hợp “hồi sinh từ cõi chết”.
Sự việc xảy ra vào ngày 26 tháng 2 năm 1989, một con tàu đánh cá của Panama đang hoạt động tại vùng biển cách khu vực Bermuda 75 dặm về phía nam, thì phát hiện một tấm vải màu trắng trôi nổi trên mặt biển, kéo lên thì đột nhiên phát hiện bên trong có một người còn sống, người này tên là Michaelville Stokes, những giấy tờ tùy thân của anh ấy cho thấy anh ấy đã chết vì ung thư vào năm 1926. Bản thân anh cũng không nhớ nổi quá trình hồi phục của mình. Người này đã di cư đến Bermuda vào năm 1918, năm 1923 bị bệnh ung thư, anh ta qua đời vào ngày 24 tháng 3 năm 1926. Vợ con anh làm theo di nguyện của anh, đưa anh đi hải táng, sự việc đã trôi qua 63 năm, đột nhiên anh lại sống lại. Rốt cuộc đây là chuyện gì? Nguyên nhân thực sự nằm ngoài dự liệu của con người, tôi trông thấy nhục thân của người chết này bị một con thằn lằn biển đã tu hành suốt mấy trăm năm thành tinh nhập vào, nó chiếm hữu thân thể này. Đúng lúc gặp cánh cửa thời không trên biển mở ra, nhục thân này quanh quẩn trong đường hầm thời không suốt 7 ngày, khi trở về không gian người thường, do thời không nhanh chậm khác nhau, trên thế giới đã trôi qua 63 năm rồi. Lúc sinh mệnh này tỉnh lại thì không còn bất cứ ký ức nào trước đây nữa, như một người mất trí nhớ vậy, thân thể còn tồn tại nhưng bên trong lại là một linh hồn khác.
Trên thế giới còn có rất nhiều khu vực bí ẩn như Bermuda, nổi tiếng nhất trong số đó là vùng tam giác Ma Hải Long. Từ khu vực Bermuda thuộc Đại tây dương, men theo kinh tuyến xuyên qua lục địa Châu mỹ và Thái bình dương, cũng có một tam giác quỷ thuộc tây Thái bình dương gọi là tam giác “Ma Hải Long”. Nó nằm giữa Nhật Bản và đảo Mariana, thuộc khu vực núi lửa hoạt động, nó cũng nằm ở 30 độ vĩ bắc, dưới đáy biển có một rãnh rất sâu. Ở đây cũng có tồn tại cánh cửa thời không. Rất nhiều vụ mất tích ly kỳ xảy ra ở đây mà cho đến này các nhà khoa học vẫn chưa giải thích nổi.
Ngày 18 tháng 9 năm 1952, một con tàu nghiên cứu khảo sát của Nhật Bản có tên là “Hải dương ngũ hoàn” đã mất tích không dấu vết tại tam giác Ma Hải Long, trong quá trình tìm kiếm, người ta không thấy một mảnh vỡ nào của con tàu, hay một thi thể thuyền viên nào, không có vết dầu loang, không phát hiện ra bất cứ manh mối nào về con tàu trên vùng biển này. Vậy thì con tàu này rốt cuộc đã đi đâu?
Tôi nhìn thấy con tàu này lúc đó đi vào vùng biển Ma Hải Long, vừa đúng lúc lớp  vỏ trái đất ở dưới đáy biển xuất hiện hiện tượng lạ làm thay đổi trường năng lượng vật chất thời không người thường, đồng thời liên tiếp cộng hưởng với trường năng lượng của thời không khác, con tàu “Hải dương ngũ hoàn” trong phút chốc bị cuốn vào cánh cửa thời không, nó chui vào trong đường hầm thời không. Khi mật độ vật chất cấu thành ở thời không khác trở nên ngày càng lớn trong không gian này, con tàu từ từ bị ép vỡ vụn, các thuyền viên trên tàu lúc đầu cảm thấy đầu đau nhức nhối, mỗi đốt xương và da thịt đều đau đớn vô cùng, cuối cùng họ mất đi ý thức và bị một sức mạnh tiêu hủy không còn dấu vết. Trong không gian khác đối ứng với không gian này, vùng biển này khắp nơi đều là những mảnh vụn của con tàu và những vết dầu loang trôi nổi trên biển.
Vùng biển Ma Hải Long cũng là  có những người ngoài hành tinh đến từ thiên hà Bọ Cạp Ma cư ngụ, mục đích của họ đến Trái đất khác với những người ngoài hành tinh khác, họ là những kẻ hiếu chiến và khát máu, họ muốn xâm lược Trái đất, biến Trái đất thành thuộc địa của họ. Vụ máy bay riêng của tổng thống Phillipin bị mất tích chính là do bàn tay của họ. Ngày 19 tháng 3 năm 1957 trên vùng trời Ma Hải Long, chiếc máy bay này bị một vật thể bay tàng hình của người ngoài hành tinh bắn ra một chùm năng lượng màu xanh, toàn bộ máy bay bị bao phủ bởi năng lượng lạp tử mạnh mẽ, từ tầng bề mặt đến tầng nguyên tử đồng thời bị chùm năng lượng này giải thể thành trạng thái vật chất nguyên thủy, toàn bộ quá trình này chỉ diễn ra trong 10 giây, chiếc máy bay trong phút chốc biến mất không dấu vết trong không gian của chúng ta.
Người ngoài hành tinh Bọ Cạp Ma còn đưa khái niệm khoa học kỹ thuật của họ thâm nhập một cách hệ thống vào rất nhiều quốc gia trên Trái đất, Nhật Bản là nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Người ngoài hành tinh thường xuyên tàng hình ra vào xã hội Nhật Bản, chúng gây ảnh hưởng đến tư duy của người Nhật Bản. Công nghệ máy tính phát triển nhanh chóng và việc nghiên cứu phát triển các sản phẩm điện tử tiên tiến tại Nhật Bản cùng với việc tập trung nghiên cứu lĩnh vực khoa học về gen của con người đều do người ngoài hành tinh đứng đằng sau điều khiển. Bộ phim hoạt hình nổi tiếng “Robot đại chiến” chính là do chúng thao túng tư duy của người Trái đất để mô tả một loại trạng thái sinh tồn của các sinh mệnh ngoài hành tinh đã từng xuất hiện trong hệ Ngân hà. Khoa học kỹ thuật ngày nay của Nhật Bản đang phát triển dựa theo con đường này, thêm 200 năm nữa họ có thể chế tạo ra được những người máy có trí tuệ cao cấp sử dụng trong chiến đấu giống như phim “Robot đại chiến”.
Trên đây chỉ là một vài ví dụ đưa ra, hàng triệu năm nay những sự kiện ly kỳ xảy ra ở vùng biển Bermuda chỉ là một phần của tảng băng chìm. Tại Bermuda, ngoài những lực lượng siêu thường thao túng hết thảy còn có nhân tố con người gây nên, họ mượn tính chất thần bí của vùng biển này để tạo ra những tai nạn đường biển, đường không, sự mất tích và tử vong của con người, lẫn lộn trắng đen, khó mà phân biệt thật giả. Thực ra hết thảy sự việc hay con người xảy ra trên đời đều có mối quan hệ nhân duyên, nhìn thì có vẻ ngẫu nhiên nhưng lại không hề ngẫu nhiên.
Trong suốt mấy chục năm qua, những người ngoài hành tinh ở vùng biển Bermuda và Ma Hải Long thường xuyên quan sát xã hội nhân loại, tìm kiếm con đường đi đến tương lai cho bản thân mình, khi chịu sự xung kích của chính Pháp, họ cũng từng có ý đồ chống lại Thiên Pháp, nhưng phát hiện hết thảy đều là uổng công, kết quả của sự phản kháng chỉ có thể bị hủy diệt trong chính Pháp, do vậy họ không dám hành động gì nữa, giai đoạn này họ đang cố thủ ở Bermuda chờ đợi mọi việc an bài xong. Qua hoàn cảnh của người ngoài hành tinh tại Trái đất, tôi nhận thức thanh tỉnh một vấn đề, đó là những người ngoài hành tinh đến Trái đất này là do thiên hà mà họ sinh sống đã bị nổ tung, giải thể, hoặc đã được canh tân tiến vào vũ trụ mới được chính Pháp tạo ra, những người ngoài hành tinh này không được tịnh hóa đạt đến tiêu chuẩn của vũ trụ mới nên họ không thể trở về nơi họ đã từng sống, những cựu sinh mệnh trong vũ trụ không trải qua kiểm nghiệm tịnh hóa thì sẽ làm ô nhiễm vũ trụ mới. Người ngoài hành tinh đã vậy, nhân loại trên Trái đất cũng như vậy.
Những thăng trầm tại Bermuda đã trải qua hàng triệu năm lịch sử, từ cổ chí kim những người trên Trái đất đã từng vượt qua cánh cửa thời không kỳ quái ở Bermuda vẫn trăn trở về kiếp nhân sinh truyền kỳ của họ. Những sự việc đáng kinh ngạc và không thể tưởng tượng được này vẫn luôn là ẩn đố vĩnh hằng của nhân loại trong hiện tại và cả tương lai.