Bài viết của một đệ tử Đại Pháp người Israel được đọc tại Pháp hội Israel năm 2013.
[MINH HUỆ  03-02-2014]
Khi còn ở tuổi niên thiếu, tôi không thể chấp nhận sự thật là cuộc sống của tôi trong thế giới này không có mục đích gì. Tôi sẽ hỏi những câu hỏi đơn giản mà không ai có thể trả lời được. Tôi trở nên coi thường cái vòng luẩn quẩn “nhà trẻ-trường học-công việc-nghỉ hưu” và muốn thoát khỏi nó.
Tôi đã nghiên cứu võ thuật và biết rằng còn có nhiều điều về cuộc sống trong thế giới tâm linh, nhưng cho dù có đọc bao nhiêu quyển sách, tôi luôn luôn cảm thấy rằng những thông tin đó chỉ là bề mặt; nó không thỏa mãn trí tò mò của tôi. Cùng lúc đó, khao khát trong tôi ngày càng lớn. Khi tôi 15 tuổi, bố tôi mở một cửa hàng in ấn nhỏ, và tôi bắt đầu làm việc cho ông. Do đó, tôi được tiếp cận với những cuốn sách về tâm linh vốn đã bắt đầu thâm nhập vào nước Nga sau sự sụp đổ của chế độ cộng sản. Tôi rất quan tâm đến Phật giáo, nhưng thực sự không hiểu tu luyện là gì. Tôi chỉ đơn giản là ngồi thiền vào buổi tối khi chỉ có một mình.
Vào mùa hè năm 2000, trong tôi có một ước muốn mạnh mẽ được học tiếng Do Thái. Tôi đã học trong vài năm, nhưng thời gian này, có một sự thôi thúc khác hẳn. Tôi đã từng thức khuya vào ban đêm để luyện nghe lại các từ và tự thoại với bản thân để có kỹ năng nói. Tôi không có ai để luyện nói, nhưng cảm thấy tôi có thể tiến bộ không giới hạn. Thậm chí, tôi nhận ra sau đó rằng con người tôi sinh ra ở đây chỉ là mục đích tạm thời, và rằng vị trí thực sự của tôi không phải là trong thế giới con người.
Trong 01 năm, tôi nói tiếng Do Thái khá tốt, và việc đó đã khiến tôi có thể di cư sang Israel vào năm 2001 một cách êm xuôi. Ở Israel, tôi tiếp tục tìm kiếm con đường của mình: sách vở, thiền định, võ thuật. Tôi tìm hiểu sâu về Do Thái giáo và gần như trở thành một tín đồ, nhưng không biết làm sao để có thể chuyên tâm trong mọi lúc. Từng giây từng khắc, tôi luôn tìm kiếm một con đường tu luyện – một con đường mà tôi có thể luôn luôn đi theo.
Cuối cùng tôi cảm thấy kiệt sức và đành bỏ cuộc. Trong khi đó, ngày tôi phải nhập quân ngũ đang đến. Những suy nghĩ về việc sang Tây Tạng xuất hiện. Tôi nhận ra rằng nếu tôi bắt đầu đi theo con đường của một người bình thường, tôi sẽ không còn có thể thoát ra khỏi đó – và sau đó tôi sẽ chỉ lãng phí cuộc đời như những người xung quanh, sống mà không có mục đích thực sự.
Nhưng làm thế nào tôi có thể nói với bố mẹ đây? Còn sự nghiệp của tôi và những kỳ vọng của mọi người ở tôi thì sao? Tôi lo sợ. Tôi đoán là Sư phụ chắc hẳn đã ngăn tôi lại không để tôi ra đi, do đó tôi đã tiếp tục cuộc sống thường ngày. Tôi tự nhủ rằng tôi sẽ không chủ ý đi tìm kiếm nữa, bất cứ thứ gì đến tiếp theo sẽ đúng là thứ cần tìm và tôi sẽ chấp nhận vô điều kiện. Đó sẽ là số phận của tôi.
Vào một trong những ngày mệt mỏi và tủi hổ khi được đào tạo cơ bản trong quân ngũ, tôi đã trèo lên một vọng gác. Tôi ngồi xuống, mệt mỏi cả tâm lẫn thân, với những suy nghĩ không ngừng hối hận về con đường mà tôi đã đi. Đột nhiên, tôi thấy một tờ rơi màu xanh, một phần bị rách và bị đốt cháy ở gần cửa sổ. Tôi có thể thấy một hình ảnh người luyện các bài công pháp của Đại Pháp và một số thông tin trên đó.
Thậm chí trước khi tôi bắt đầu đọc, một luồng nóng đã chạy dọc thân thể tôi và tôi bắt đầu khóc. Luồng nóng đó đã lan khắp cơ thể tôi, và tôi không còn thấy mệt mỏi. Tôi háo hức đợi tới ngày thứ 7, khi tôi có thể rời doanh trại và tới công viên để học các bài công pháp.
Khi tôi học các bài công pháp, tôi cảm thấy chúng rất quen thuộc. Sau vài tuần, tôi đã đọc cuốn Chuyển Pháp Luân. Tôi nhận ra rằng: “Tôi đã tìm thấy rồi. Tôi trở về rồi. Tôi có thể bắt đầu con đường của mình.” Đó là câu chuyện đắc Pháp của tôi, và cuộc đời tôi bắt đầu thay đổi.
Con cảm ơn Sư phụ tôn kính đã luôn ở bên con trong suốt những năm đó, dẫn dắt con qua hàng nghìn dặm để tới Israel đắc Pháp.
Hướng về Sư phụ
Tôi quyết định tham gia một hạng mục giảng chân tướng và bắt đầu học thiết kế đồ họa, vì nó cần cho công việc tôi có thể làm ở một tòa báo của đệ tử Đại Pháp.
Tuy nhiên, sau một năm học đại học, có điều gì đó khiến tôi chán nản với việc học. Tôi nhận ra rằng khóa học mà tôi đang theo quá dài. Tôi chỉ cần có kiến thức, chứ không phải là bằng cấp, và bắt đầu làm việc cho tờ báo trong thời gian sớm nhất có thể. Là một người tu luyện, tôi có ý chí để tiến nhanh mà không cần một khoảng thời gian lâu như vậy.
Tuần đó tôi rời khỏi trường đại học và bắt đầu tham dự một khóa học chuyên nghiệp mà em trai tôi đang học. Nó kéo dài chưa đến một năm. Đến cuối khóa, tôi bắt đầu tìm việc để có được kinh nghiệm thực tiễn thích hợp.
Mọi người xung quanh tôi đều nói rằng không có hy vọng tìm được việc làm khi không có kinh nghiệm trước. Nhưng tôi coi đó như một can nhiễu, nên không chấp nhận nó. Tôi cầu xin Sư phụ trong tâm: “Sư phụ, con biết là một người tu luyện, những thứ như số liệu thống kê, khủng hoảng kinh tế và tình trạng thị trường không thể tác động tới con, và con biết mình cần nhanh chóng tìm được một công việc để học thiết kế và đảm trách nhiệm vụ của mình tại tờ báo càng sớm càng tốt. Xin hãy giúp con.”
Một tháng trước khi khóa học kết thúc, tôi tìm thấy một công việc đáng mơ ước với mức lương tốt; tôi thậm chí được nhận vào làm trước khi lấy được chứng chỉ tốt nghiệp. Một vài tháng sau đó, tôi đã làm việc vào ban đêm ở tờ báo, thực hiện các công việc đồ họa đơn giản.
Ban đầu, tôi không có đủ kiến thức chuyên môn. Mọi thứ đều cần nhiều thời gian để hoàn thành và không đạt tiêu chuẩn, nhưng Sư phụ luôn luôn chuẩn bị trước cho tôi những kỹ năng cần thiết. Ví dụ, một tháng trước khi tôi phải thiết kế các tài liệu cho một hội chợ cho tờ báo, tôi phải thiết kế một tài liệu tương tự cho một triển lãm lớn trong công việc bình thường của mình. Khi chúng tôi phải sản xuất cuốn sách nhỏ quảng bá cho tờ báo, tôi đã phải làm một dự án như thế trong công việc bình thường của mình.
Mỗi lần Sư phụ lại cho tôi thêm nhiều kinh nghiệm hơn để tôi có thể xử lý các công việc chuyên môn, và tôi luôn luôn sẵn sàng học hỏi thêm. Tôi biết điều đó sẽ có hữu ích trong tương lai. Sau một vài tháng, tôi được bổ nhiệm làm trưởng nhóm thiết kế đồ họa tại tờ báo.
Buông bỏ tự ngã
Sau một vài năm, lượng công việc ở tờ báo mà bây giờ đã trở thành một tạp chí, đã tăng lên rất nhiều. Ngoài thời gian dài trong công việc bình thường của mình, lượng việc tại tờ báo đã tăng lên gấp đôi từ số phát hành này đến số phát hành khác, và tôi không thể xử lý một lượng lớn công việc như vậy. Tôi tiếp tục làm việc từ sáng tới tối, ngày này qua ngày khác, và thường mệt mỏi sau khi hoàn tất công việc bình thường của mình.
Học Pháp và luyện công trong những ngày làm việc đã trở thành một giấc mơ xa vời. Tôi đảm nhận cả 2 công việc toàn phần và không thể làm việc nào được tốt. Sau mỗi số báo được phát hành, tôi cảm thấy kiệt sức, không còn lại chút sinh lực nào, chỉ mong hoàn thành các công việc của mình. Vì tôi học Pháp không tốt, tôi mất nhiều thời gian cho một thiết kế và ngày càng ít thời gian rảnh.
Có sự mong đợi cải thiện hơn nữa các tiêu chuẩn cần thiết để tờ báo trở nên thực sự có ảnh hưởng trong xã hội, qua đó có thể cứu độ chúng sinh ở quy mô rộng hơn, và lượng công việc sẽ phải tăng lên. Tôi phải quyết định làm gì tiếp theo, vì không thể tiếp tục như trước đó được nữa.
Tôi không có thời gian cho gia đình và cuộc sống của tôi mất cân bằng nghiêm trọng. Ngoài ra, một phần lớn sản phẩm công việc tôi đang làm mang đầy tâm oán hận, giận dữ và những quan niệm người thường của tôi. Trong tâm mình, tôi rất buồn khi biết rằng công việc của mình chứa đầy những suy nghĩ người thường, vì tâm tôi không chứa Pháp. Tôi xin Sư phụ tha thứ và cũng mong nhóm làm việc ở tờ báo tha thứ.
Tôi nghĩ rằng là một đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp, tôi không thể dành nhiều thời gian cho công việc người thường đến mức không có đủ thời gian để giảng chân tướng cho mọi người. Tôi biết rằng có cơ hội giảng chân tướng trên diện rộng thông qua tờ báo.
Sư phụ đã dạy trong “Giảng Pháp tại hội nghị Đại Kỷ Nguyên”:
“Mọi người thử nghĩ xem, nếu chư vị nhiều người đến vậy mà không cần đi làm cho công ty người thường để giải quyết vấn đề sinh sống, bản thân tờ báo là đã có thể giải quyết rồi, toàn lực đặt hết cả vào đó, nếu tờ báo này có thể biến thành một công tác bình thường của xã hội người thường, có phát lương như bình thường, thế thì chư vị chẳng phải vừa làm việc mà đệ tử Đại Pháp cần làm, vừa có được đảm bảo cho sinh hoạt? Tốt quá phải không?”
Tôi đối mặt với sự lựa chọn: tiếp tục với công việc của người thường hay chuyển sang làm toàn thời gian cho tờ báo. Ngoài ra, tôi cũng nhận ra rằng tôi chỉ quan tâm đến bản thân và cuộc sống của bản thân mà không báo đáp lại gì cho Pháp đã cứu rỗi tôi cùng với thiên thể khổng lồ này. Sư phụ đã gánh chịu rất nhiều thứ cho tôi, như bệnh tật và nghiệp lực, và tôi tiếp tục sống với một cơ thể khỏe mạnh trong suốt những năm qua – thu mình lại và chờ đợi được gọi tới. Thật là một sự lãng phí lớn! Tôi lấy làm tiếc rằng tôi đã không nhận ra điều đó trước đây.
Trong Tinh tấn yếu chỉ II, Sư phụ đã giảng:
“Những ai đã đắc Đại Pháp thì từ bề ngoài của người ta [cũng] biết được cái nghĩa bên trong của Pháp, có người từ Pháp mà được sinh mệnh kéo dài hơn, có người được hết thảy những điều tốt như sức khoẻ cho thân thể, sự hoà thuận cho gia đình, họ hàng bè bạn gián tiếp nhận được lợi ích và tiêu giảm nghiệp lực, cho đến được Sư phụ vì thế mà gánh chịu cho; từ không gian khác mà giảng thì thân thể đang chuyển hoá sang [thân] thể của Thần; tuy nhiên vào thời Đại Pháp cần viên mãn chư vị thì [chư vị] lại không thể từ con người mà bước ra, vào thời tà ác bức hại Đại Pháp chư vị lại không thể đứng ra chứng thực Đại Pháp. Những người này chỉ muốn từ Đại Pháp mà được những điều tốt, mà không muốn vì Đại Pháp chi tổn; từ cái nhìn của chư Thần, những người này là những sinh mệnh bất hảo nhất.”
Mặc dù có lẽ tôi đã làm được rất nhiều trong việc giảng chân tướng, nhưng thực sự thì chừng đó chắc chắn chưa đủ. Nhận thức đã hạn chế tôi là tôi đang làm công việc người thường và chỉ có thể tham gia các hạng mục Đại Pháp trong thời gian rảnh. Tôi đã quên mất một điều quan trọng – rằng trong cuộc sống này, tôi chịu trách nhiệm cho những gì xảy ra với tôi trong suốt cả một ngày dài, chứ không chỉ trong thời gian rảnh rỗi của mình.
Tôi nhận ra rằng tôi không nên chấp nhận những gì có vẻ như là “bình thường” trên bề mặt. Bằng chính niệm mà Sư phụ đã cấp cho tôi, tôi có thể tạo ra một hoàn cảnh trong đó đặt việc cứu độ chúng sinh làm ưu tiên hàng đầu. Tôi cần cố gắng hết sức và dành hầu hết thời gian quý giá của mình cho việc giảng chân tướng. Tôi nhận ra rằng một công việc toàn thời gian tại tờ báo có thể là một lựa chọn tuyệt vời cho công việc giảng chân tướng đó, đặc biệt khi tôi đã có những kỹ năng và kinh nghiệm chuyên môn liên quan.
Nhưng tôi không biết làm thế nào để biến điều đó thành hiện thực. Vợ tôi và tôi không có đủ nền tảng tài chính để làm việc, thậm chí chỉ là nửa năm cho tờ báo, và cô ấy cũng đã mang thai. Làm thế nào tôi có thể cắt giảm thu nhập thường kỳ của mình mà vẫn đủ sống sau khi sinh con? Điều đó dường như là không khả thi, nhưng tôi vẫn cảm thấy rằng đó chính xác là những gì tôi phải làm.
Theo thời gian, vợ tôi và tôi cùng chia sẻ nhận thức về vấn đề này, cho tới một ngày chúng tôi ngồi xuống để quyết định phải làm gì. Chúng tôi không biết điều gì sẽ xảy ra và chuyện đó sẽ thực hiện như thế nào, nhưng chúng tôi đã trồng một hạt giống mà đơm hoa kết trái sau đó. Trong tâm chúng tôi, chúng tôi quyết định rằng tôi sẽ phải nghỉ việc người thường và làm việc cho tờ báo.
Tôi đã xin Sư phụ và các chính thần giúp đỡ để xây dựng một con đường đưa tới kết quả mong muốn. Về phần mình, tôi đã chuẩn bị một kế hoạch ngân sách cho phép 3 chúng tôi sống với thu nhập bị giảm đi chỉ còn 1/3. Tôi đã cắt giảm mọi thứ có thể, nhưng kế hoạch chi tiêu vẫn không thể bao quát tất cả các chi phí. Chúng tôi thiếu tiền cho việc thuê người làm khi vợ tôi hết thời kỳ nghỉ thai sản.
Chúng tôi nhận ra rằng không có gì đảm bảo 100%. Nếu mọi thứ đều trơn tru mà không phải lo ngại gì, đó không phải là tu luyện. Chúng tôi đã lên được một kế hoạch tối ưu tới 80%, 20% còn lại sẽ là sự tin tưởng. Đó là phần thử thách đối với chúng tôi – xem chúng tôi tin ở Sư phụ tới mức nào và có sẵn sàng nhảy vào nước ngay cả khi nó lạnh giá không. Chúng tôi quyết định nhảy vào.
Tất cả những tháng ngày tiến tới quyết định này rất quý giá đối với tôi. Tất cả các loại chấp trước đều nổi lên, do đó tôi có cơ hội để buông bỏ chúng. Là một người rất tính toán, tôi nhận ra rằng trong khi xây dựng một kế hoạch ngân sách rất chính xác cho gia đình mình, tôi không nên để bị tách ra mà thay vào đó nên hướng về Sư phụ và hoàn toàn tin vào con đường mà Ngài đã an bài cho tôi, một con đường mà tôi có thể chưa nhìn thấy.
Ngày này qua ngày khác, một lớp các chấp trước khác lại xuất hiện. Mỗi lần như vậy, tôi cố gắng đào sâu chúng từ tận gốc rễ và buông bỏ chấp trước mong muốn kiểm soát hoàn toàn tiền bạc và cuộc sống của mình. Rồi đến một ngày, cuối cùng, tôi đã bắt đầu cảm thấy nhẹ nhàng cả thân lẫn tâm – có thể buông bỏ những toan tính của bản thân và chỉ tuân theo an bài của Sư phụ.
Có những ngày mà tôi tỉnh giấc vào buổi sáng và tự nhủ: “Mình đang nghĩ gì vậy? Mình có một gia đình. Chẳng bao lâu nữa mình sẽ có một cô con gái nhỏ. Mình có trách nhiệm mang đến cho họ những điều kiện sống tốt! Làm sao mà mình có thể nghĩ đến việc rời bỏ công việc ổn định của mình?”
Trong những ngày đó, những nỗ lực kéo tôi đi chệch hướng dường như thực sự hữu hình, nhưng khi nhớ lại những lời của Sư phụ, tôi lập tức tĩnh tâm trở lại:
Sư phụ đã nói trong Chuyển Pháp Luân:
“Tương lai còn làm chư vị xuất hiện tình huống ấy, làm chư vị tạo thành [cảm] giác sai như thế, làm chư vị cảm giác như chúng hệt như không tồn tại, đều là giả hết, chính là để xem chư vị có thể kiên định hay không. Chư vị nói rằng chư vị cần phải kiên định không lay động, với tâm như thế, đến lúc ấy chư vị thật sự có thể kiên định không lay động, thì chư vị tự nhiên làm được tốt, bởi vì tâm tính chư vị đã đề cao lên.”
Sau khi vợ tôi và tôi đi tới quyết định, tôi đã bỏ việc. Hai tháng sau, bà của vợ tôi đã tới và tình nguyện chăm sóc con gái chúng tôi vài tiếng mỗi ngày. Không phải nghĩ ngợi nhiều, chúng tôi đã nhận ra rằng chuyển đến sống gần bà ngoại là điều phải làm, do vậy sau một vài tuần chúng tôi đã chuyển tới sống trong cùng tòa nhà với bà.
Tôi bắt đầu làm việc toàn thời gian tại tờ báo mà không có lương, do đó vấn đề tài chính vẫn chưa được giải quyết. Một thời gian sau, giám đốc ấn bản của tờ báo tiếng Israel từ nước ngoài về và thông báo rằng kể từ tháng tới, tất cả những nhân viên làm việc toàn thời gian sẽ được nhận lương. Tôi vui mừng và thầm tạ ơn Sư phụ. Tôi nhận ra rằng nếu tôi không dám bước đi và tin tưởng hoàn toàn vào Sư phụ mà chỉ dựa vào những cân nhắc bề mặt, tôi đã có thể bỏ lỡ những tháng ngày làm việc quý giá.
Nhìn lại 06 tháng qua, tôi nhận thấy mọi thứ được xây dựng rất chính xác. Tôi nhận ra rằng chỉ sau khi tôi đã buông bỏ những chấp trước ở một tầng thứ nào đó, tôi mới được phép bước những bước tiếp theo. Mỗi bước tiếp theo đều trên cơ sở tiếp nối của bước trước đó.
Thậm chí nếu tôi phải làm việc toàn thời gian cho tờ báo vài tháng sau đó, khi đó nhân viên làm toàn thời gian đã được trả lương, nhưng tôi sẽ không thể tu bỏ được những chấp trước đó của mình. Bên cạnh đó, không thực sự tin tưởng hoàn toàn vào Sư phụ, còn gì để bàn về việc làm cho một hạng mục của Đại Pháp? Tôi phải được tịnh hóa trước khi tham gia vào hạng mục này. Tôi cảm thấy điều đó là vô cùng quý giá. Sự tịnh hóa này cũng giúp tôi quan tâm và thông cảm hơn đối với các đồng tu trong công tác.
Cuối cùng tôi đã cân bằng được giữa cuộc sống và công việc của mình. Sau một thời gian dài ngồi trước máy tính một cách cô lập, tôi bắt đầu lại tới nhóm học Pháp và nhận thấy nó thật là hữu ích. Tôi cảm thấy tiếc là tôi đã không đến học trong nhiều tháng và tiếc cho những gì mình đã bỏ lỡ.
Nhóm học Pháp đã kết nối tôi như một lạp tử với các lạp tử khác của một chỉnh thể, và tôi lại cảm thấy mình là một phần của chỉnh thể ấy. Sau khi bắt đầu tới học Pháp nhóm, tôi đột nhiên cảm thấy một mối liên hệ chặt chẽ với mỗi đồng tu và làm việc với họ suôn sẻ hơn.
Kinh nghiệm làm việc cùng những người tu luyện Đại Pháp ở nơi làm việc là môt điều không thể so sánh với bất kỳ môi trường làm việc nào khác. Một mặt, chúng tôi đang vận hành một doanh nghiệp, với các hóa đơn, các giao dịch, và các thời hạn sát sao cho các nhiệm vụ và các hạng mục. Mặt khác, không có cảm giác thương mại hóa, mọi người đều không chấp trước vào tiền bạc và lợi ích cá nhân, và mỗi người đều nỗ lực cố gắng để hạng mục của chúng tôi có thể thành công. Thậm chí cả khi có tranh luận, mọi người cố gắng tìm hiểu vấn đề và không cho phép điều đó làm ảnh hưởng tới công việc.
Phối hợp chặt chẽ với các học viên cho tôi cơ hội buông bỏ nhanh chóng một số các chấp trước mà tôi đã có trong nhiều năm làm việc trong công việc trước đó. Khi bạn làm việc với các học viên, tất cả các chấp trước của bạn sẽ bộc lộ và họ có thể chỉ ra chúng cho bạn. Sau đó, bạn không có lựa chọn nào khác ngoài việc chú ý đến những vấn đề đó – điều đó thật tuyệt vời.
Trong những ngày tháng làm việc cho tờ báo, tôi cảm nhận được những thay đổi lớn trong thái độ của mình: tôi trở nên bớt cố chấp hơn, vị tha hơn, và biết cách lắng nghe hơn, tôi có thể đối diện với người khác và các vấn đề của họ mà không sinh tâm oán hận.
Loại bỏ chấp trước căn bản của tôi – tâm sợ hãi
Trong toàn bộ quá trình tu luyện của tôi, Sư phụ đã dẫn tôi đến hoàn cảnh mà tôi phải chịu trách nhiệm và ra yêu cầu đối với người khác. Cho dù là ở vị trí chỉ huy trong quân đội hay sau đó là trong dịch vụ dự phòng, trong công việc người thường, hay ở vị trí trưởng nhóm tại tờ báo, rốt cuộc tôi cũng rơi vào hoàn cảnh phải lãnh đạo. Lúc đầu, tôi không biết liệu đó có phải là điều tôi phải làm hay không; tôi có cá tính là một người thừa hành hơn là một quản lý.
Khi được đặt vào các vị trí lãnh đạo, tôi nhanh chóng nhận ra rằng luôn luôn có một chấp trước nổi lên – tâm sợ hãi – sợ thể hiện bản thân, sợ những điều người khác có thể nghĩ về tôi, sợ phản ứng tiêu cực của đối phương. Tất cả những điều này ngay lập tức nổi lên như những bong bóng khí bất cứ khi nào tôi ở vị trí quản lý. Thậm chí cả khi tôi đóng vai trò cái gọi là “quản lý tốt”, cố gắng làm hài lòng tất cả mọi người, điều đó cũng đến từ sự sợ hãi. Nếu một ai đó không hài lòng, anh ta sẽ đối xử với tôi thế nào đây? Sự sợ hãi này sẽ ngay lập tức nổi lên, và cái tự ngã sẽ bắt đầu tự bảo vệ mình.
Tôi nhận ra rằng tôi phải đặt khá nhiều công phu vào việc này. Tôi hướng nội để xác định tất cả những điều đó đến từ đâu: Nguyên nhân gốc rễ của nỗi sợ hãi ấy là gì? Tôi nhớ lại tất cả các tình huống mà thông qua đó cựu thế lực đã ép nhập nỗi sợ hãi này lên tôi để nó gây khó khăn hơn cho việc cứu độ chúng sinh trong thời kỳ Chính Pháp.
Ở Nga, gia đình tôi đã di cư nhiều lần, và mỗi lần tôi lại sống trong một vùng với những người ít lương thiện hơn và hung bạo hơn. Một mặt, điều này khiến tôi tích lũy đủ đức để sau đó đắc Pháp, nhưng cùng lúc đó nó cũng ép nhập những nỗi sợ cơ bản này lên tôi. Nỗi sợ này tích tụ lại trong từng tế bào vi lạp, hết lớp này đến lớp khác, và không dễ dàng kiểm soát như một số chấp trước người thường khác.
Khi tôi 12 tuổi, những cảnh sát có vũ trang đã xông vào nhà chúng tôi và đe dọa gia đình tôi bằng súng. Tôi luôn luôn sống trong sợ hãi, và bố mẹ tôi đã thể hiện điều đó trong hành vi của họ một cách không tự biết. Khi một thứ gì đó ẩn sâu, cần rất nhiều nỗ lực để đào xới nó, để thanh trừ thứ vật chất này hết lớp này đến lớp khác. Cuối cùng tôi đã nhận ra tại sao tôi lại không sinh ra ở Israel. Chỉ ở những nơi như những nơi tôi đã từng sống, trong môi trường khắc nghiệt như vậy, mới có cơ sở cho nỗi sợ hãi như vậy được tích lũy.
Trong công việc của mình, dù là ở tờ báo hay ở một công ty người thường, hiệu quả công việc của tôi và của nhóm của tôi không bao giờ tương xứng, vì tôi không muốn gây áp lực cho cấp dưới của mình. Để tránh họ phản ứng lại, tôi sẽ cho họ tất cả thời gian có thể để hoàn thành công việc của mình. Sau khi họ đã lãng phí hàng giờ, tôi mới khám phá ra rằng công việc cuối cùng không được tốt. Sau đó tôi phải lịch sự yêu cầu họ làm lại tất cả lần nữa, hoặc phải cải tiến công việc.
Tôi tự trách mình và không có đủ can đảm để nói: “Cái này không tốt! Hãy làm lại tất cả trong vòng 1 giờ.” Đó là do nỗi sợ hãi – và nỗi sợ ẩn sâu này thật lớn. Công việc tiến triển chậm chạp và mọi người làm những gì mà mình thích, vì tôi sợ đặt ra giới hạn. Tôi lịch sự để làm hài lòng tất cả mọi người, và cùng lúc làm chính bản thân mình thất vọng tới mức tuyệt vọng.
Tôi thấy được cái tôi của mình đang làm trì hoãn công việc, vì tôi nghĩ về những gì mọi người sẽ nói về tôi thay vì làm thế nào để công việc tiến triển. Thật là ích kỷ! Để có được kết quả thực sự, tôi phải buông bỏ tự ngã, để hiểu rằng thay vì nghĩ về bản thân, nên tập trung vào những gì mà hạng mục đang cần.
Cái gì là đúng thì đều phải làm, bất kể ai đó sẽ hét vào mặt tôi hay thậm chí đánh tôi. Tôi có trách nhiệm làm những gì cần làm mà không lo sợ về hậu quả.
Thể ngộ của tôi là hoàn toàn chính xác – tôi phải tập trung loại bỏ chấp trước này vốn đã tạo nên can nhiễu lớn cho tôi trong khi làm ba việc, và phải nhanh chóng làm vậy để bù đắp lại những năm tháng tôi đã không dám làm điều đó.
Tôi thêm vào niệm diệt tâm sợ hãi trong 5 phút đầu phát chính niệm hàng ngày. Bất cứ khi nào có thể, tôi đều chủ động đi tới những nơi mà tôi phải đối mặt với sự sợ hãi, để tu bỏ nó và không né tránh những tình huống như vậy, coi chúng là cơ hội cho mình.
Mỗi lần như vậy, tôi sẽ hướng nội, tìm ra nỗi sợ hãi và tuyên bố rằng đó không phải là tôi, cho tới khi tôi có thể phân biệt nó với bản thân mình và xem nó như một thứ vật chất không thuộc về chân ngã của tôi. Tất nhiên, không phải tôi luôn luôn vượt qua được, nhưng mọi thứ đã tốt hơn sau mỗi lần như vậy.
Khi tôi gặp xung đột trực tiếp, không phải như thể là nỗi sợ không tồn tại, mà là tôi làm mọi thứ mà không màng đến nó và không quan tâm đến nó. Do đó, nó sẽ biến mất trong vài giây. Tôi đã thay đổi thái độ của mình trong công việc, tập trung vào việc cần phải làm chứ không phải là những gì tôi sợ. Kết quả và hiệu suất công việc tăng lên đáng kể.
Những lúc đó, đầu óc tôi ngừng tạo ra những kịch bản vô tận cho mỗi hành động mà tôi làm và cảnh báo những xung đột có thể xảy ra. Tôi có thể chỉ làm công việc của mình mà không ngập chìm trong quan niệm đúng sai. Nếu tôi nhận được chỉ trích, tôi sẽ tận hưởng nó, vì tôi nhận ra rằng khi tôi mất đi một chút, tôi sẽ được rất nhiều. Cái thứ vật chất sợ hãi này đã dần dần tan biến, và tôi bắt đầu cảm thấy nhẹ nhõm trong tâm trí và tư tưởng của mình. Những gì tôi mất thực sự là những thứ xấu.
Kết luận
Hiện nay cả vợ tôi và tôi đều làm việc toàn thời gian cho tờ báo, với một đứa con 6 tháng tuổi ở nhà. Lịch trình hằng ngày của chúng tôi đã thay đôi rất nhiều, và một ngày trôi qua rất nhanh, với mỗi thời khắc đều quý giá. Ngoài việc làm toàn thời gian tại tờ báo, tôi cần cân bằng cuộc sống riêng của mình, cân bằng tài chính, giảng chân tướng trong mọi tình huống, làm tốt 3 việc và chăm sóc con bằng các giá trị chân chính Chân – Thiện – Nhẫn.
Tôi không còn phàn nàn về việc thiếu thời gian trong khi có quá nhiều việc phải làm, vì bây giờ tôi đã nhận ra rằng đây chính là uy đức mà tôi cần phải tạo lập. Tôi sống vì người khác. Trách nhiệm này rất lớn. Mục tiêu lớn nhất của tôi là dành toàn bộ thời gian của mình cứu càng nhiều chúng sinh càng tốt. So với điều này, mong ước của tôi về việc được riêng tư, thời gian cá nhân hay thêm chút nghỉ ngơi có vẻ khá tầm thường.
Tôi muốn kết thúc bài chia sẻ của mình bằng những lời của Sư phụ trong Chuyển Pháp Luân:
“Thời tôi tu luyện trong quá khứ, có rất nhiều cao nhân đã giảng cho tôi câu này, họ nói: “Nan Nhẫn năng Nhẫn, nan hành năng hành”. Thực ra đúng là như vậy. Nếu không ngại gì thì khi về nhà chư vị hãy thử đi. Khi gặp khó khăn kiếp nạn, hoặc khi vượt quan, chư vị hãy thử xem: khó Nhẫn, chư vị hãy cứ Nhẫn xem sao; thấy thật khó làm, nói là khó làm, chư vị cứ làm xem cuối cùng có làm được chăng. Nếu chư vị có thể thật sự thực hiện được như vậy, thì chư vị sẽ phát hiện rằng ‘liễu ám hoa minh hựu nhất thôn’!”
Cảm ơn các đồng tu đã lắng nghe và dành cho tôi sự cảm thông sâu sắc.
Trên đây là những thể ngộ của tôi tại tầng thứ của mình.
Cảm ơn tất cả các bạn!
Cảm tạ Sư phụ tôn kính!

Đăng ngày 07-03-2014; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.